LTS: Tuần Việt Nam mở Diễn đàn "Vì Việt Nam hùng cường" với mong muốn thu nhận từ quý độc giả những ý kiến, bài viết về các giải pháp phát triển đất nước trong tất cả các lĩnh vực nhằm khơi thông tiềm năng phát triển, cổ vũ niềm tin của cộng đồng vào tương lai Việt Nam. Mời quý độc giả gửi bài viết về [email protected].

Luật Doanh nghiệp 1999 đã làm thay đổi căn bản triết lý và khung tư duy về kinh doanh ở Việt Nam. Đó là trả quyền kinh doanh cho người dân, bỏ chế độ “làm gì cũng phải xin phép”. Hàng ngàn giấy phép không tên, có tên mà vô lý đã được bãi bỏ suốt 20 năm qua và tiếp tục được bãi bỏ.

Trước đó, nguyên tắc “ai kinh doanh thì phải xin phép” và “có phép mới được quyền kinh doanh”. “Phép” ở đây không chỉ là giấy phép mà có thể là bút phê của một công chức nhà nước của một cơ quan có thẩm quyền nào đó. Có 4 tiêu chí để đo các ngyên tắc này. Đó là, tự do kinh doanh, tăng quyền tự do kinh doanh và bảo đảm, bảo vệ được quyền tự do kinh doanh; giảm chi phí tuân thủ đối với doanh nghiệp; an toàn trong kinh doanh, tăng mức độ an toàn, quyền và tài sản trong kinh doanh được luật pháp bảo vệ; giảm, thu hẹp và loại bỏ rủi ro từ chính sách, thể chế và thực thi luật pháp.

Tổ công tác thi hành Luật Doanh nghiệp 1999 đã khới xướng cuộc chiến này bằng việc đề xuất và được Thủ tướng Phan Văn Khải chấp thuận bỏ 84 giấy phép con vào ngày 3/2/2000. Nhưng công việc chỉ thuận lợi trong 2 năm đầu, trước khi các bộ, ngành được giao chủ động đề xuất cắt giảm.

{keywords}
Luật Doanh nghiệp 1999 đã làm thay đổi căn bản triết lý và khung tư duy về kinh doanh ở Việt Nam. Đó là trả quyền kinh doanh cho người dân, bỏ chế độ “làm gì cũng phải xin phép”. Ảnh: Thanh Tùng

Dù các Tổ công tác sau này cho cả Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư năm 2014 đã cắt giảm vài ngàn điều kiện kinh doanh nhưng không thể đủ sức, đủ lực đương đầu với nạn giấy phép con và các rào cản mới mọc ra trong môi trường kinh doanh.

Chẳng hạn, khi ra các tuyến đường ven đô có thể thấy những trạm bán xăng nằm kề nhau, mang thương hiệu khác nhau. Trước năm 2018, quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng dầu không cho phép điều này. Tương tự như 20 năm trước, một đường phố ở Hà Nội không thể có 3 quán phở.

Cơ hội gia nhập thị trường của nhiều ngành đã mở, nhưng trong nhiều ngành, lĩnh vực khác, người kinh doanh mới nhận được quyền tự do trong kinh doanh cái gì, còn kinh doanh như thế nào, bao nhiêu vẫn chưa. Trong giấy chứng nhận đầu tư, nhà nước vẫn ghi chấp thuận đầu tư bao nhiêu tiền, công suất bao nhiêu. Điều kiện kinh doanh vận tải hành khách ghi rõ chiều dài các cạnh của biển phù hiệu dán trên xe.

Cách đây hai thập kỷ, những người làm Luật Doanh nghiệp xác định đây là quyền của doanh nghiệp, quyết định trên cơ sở thị trường trong từng giai đoạn, chứ không phải của cơ quan quản lý nhà nước. Nên mới có việc phải thuyết phục bằng được đưa vào Luật nội dung hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, đi kèm là quy định cơ quan đăng ký kinh doanh không được yêu cầu nộp thêm gì. Không phải tự nhiên có câu này.

Hồi đó, chúng tôi tìm phát hiện các loại giấy chứng nhận đủ 18 tuổi, giấy chứng nhận không bị tâm thần, không phạm tội... trong hồ sơ thành lập doanh nghiệp. Hỏi doanh nghiệp, mới biết là để tuân thủ quy định là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, không bị bệnh tâm thần, không phạm tôi... mới được thành lập doanh nghiệp, họ phải đến các cơ quan nhà nước, xin đủ các giấy. Những cải cách này tưởng nhỏ, nhưng lại thay đổi vô cùng lớn khi nhiều cơ quan quản lý không còn quyền hành doanh nghiệp, quản lý nhà nước chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm.

Hậu kiểm là một trong những điểm chưa thành công của Luật Doanh nghiệp vì thấy hiện tại, “hậu kiểm” cứ để doanh nghiệp ra đời, sau sẽ có thanh tra, kiểm tra, phát hiện vi phạm, xử phạt.

Thiết kế trong Luật theo nghĩa là kiểm soát trên việc đánh giá mức độ an toàn và thực thi pháp luật của doanh nghiệp, quản lý nhà nước chỉ tập trung vào nhóm có rủi ro cao.

Mang tư duy kiểm tra để phạt, công chức sẽ không thể đưa ra cơ chế, chính sách dễ tuân thủ, chi phí thấp được. Cộng với hệ thống quy định dầy đặc, mỗi năm thêm khoảng 20 luật, 100 nghị định, 600 thông tư, chưa kể hàng ngàn công văn điều hành..., thì đúng là không ai an tâm kinh doanh được, ai cũng vậy và doanh nghiệp phải đi tìm ô dù.

Khi Luật Doanh nghiệp 2005 được ban hành, lần đầu tiên cơ chế đánh giá tác động văn bản (RIA) được thực hiện. Lợi ích, chi phí, quyền lực của các bên được đặt lên bàn rất rõ ràng. Khi đó, VCCI rà soát 800 văn bản và có một báo cáo rất dầy, nói rằng, nếu không sửa thì Luật Doanh nghiệp không thể thực hiện trọn vẹn.

Doanh nghiệp gia nhập thị trường thuận lợi, nhưng không thể tồn tại nếu các hoạt động sản xuất, kinh doanh không thuận lợi tương ứng. Nếu chỉ truyền lửa cải cách trong các phiên bản Luật Doanh nghiệp là không đủ.

Khi làm việc với các bộ, ngành về phương án cắt giảm điều kiện kinh doanh, danh mục hàng hóa kiểm tra chuyên ngành hai năm vừa qua. Họ phản ứng rất gay gắt, nhiều khi một mất, một còn với nhiều đề xuất cắt giảm của của chúng tôi.

Chúng tôi tin là thành công của Luật Doanh nghiệp có lý do là cơ quan được giao soạn thảo là Bộ Kế hoạch và Đầu tư không là cơ quan thực hiện các quy định này, nên không bị rào cản lợi ích chi phối, nên họ toàn tâm toán ý cho mục tiêu cải cách.

Đây là điều mà chúng tôi muốn khuyến nghị Chính phủ trong thực thi các kế hoạch cải cách thể chế năm nay và những năm tới. Bên cạnh yêu cầu thực hiện RIA, Chính phủ phải ra tay trực tiếp, có bộ phận chuyên gia độc lập, có chuyên môn, không vụ lợi hỗ trợ để đảm bảo cải cách trong văn bản vào thực tiễn.

Cải cách Luật Doanh nghiệp phải đồng hành và kết hợp với cải cách, thay đổi hệ thống văn bản pháp luật chuyên ngành, hệ thống tòa án... Quan trọng là tinh thần cải cách phải thống nhất là vì quyền tự do kinh doanh, thì mới tạo ra hệ thống thể chế thân thiện thị trường, vì doanh nghiệp; thúc đẩy phát triển.

Hiện nay còn vô vàn ách tắc do sự chồng chéo, không rõ ràng trong 10 luật liên quan đến đầu tư, xây dựng, đất đai, nhà ở, môi trường... nếu không được gỡ những nút thắt này thì không thể trả lời được câu hỏi năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế những năm tới đây thế nào.

Vũ Lâm (ghi)