Việt Nam ham con trai thứ 2 châu Á
Ông Nguyễn Văn Tân, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục DS – KHHGĐ cho biết, dân số Việt Nam đang phải đối mặt với 3 thách thức lớn, trong đó có mất cân bằng giới tính khi sinh.
Ông Tân cho biết, trên thế giới chỉ có 15 quốc gia bị mất cân bằng giới tính khi sinh, tập trung chủ yếu ở Đông Á, Nam Á, một số nước Trung Á, 1 nước ở Trung Âu là Albania. Trong đó, Việt Nam là đại diện duy nhất ở Đông Nam Á.
Nếu xét toàn châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc với tỉ lệ 117-118 trai/100 bé gái. Kỷ lục tại quốc gia đông dân nhất thế giới từng có lúc lên tới gần 140/100.
Từ năm 2033, Việt Nam đã bắt đầu phải đối mặt với hậu quả của tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh. Ảnh minh hoạ
Trong khi các nước nói trên đều mất cân bằng giới tính khi sinh từ những năm 1980 thì đến 2006, Việt Nam mới bắt đầu. Tuy nhiên suốt 15 năm qua, Việt Nam chưa thể kiểm soát, trái lại tăng liên tục.
Năm 2006, tỉ lệ giới tính khi sinh của nước ta là 109 bé trai/100 bé gái, 2013 tăng lên 113,8/100, 2018 tiếp tục lên 114,9/100, 2019 giảm nhẹ xuống 111,5/100. Ở Ấn Độ - quốc gia đông dân thứ 2 thế giới, tỉ lệ này chỉ ở mức 110-111/100.
Theo Quỹ dân số Liên hợp quốc, tỉ lệ sinh tự nhiên luôn ở mức 102-107 bé trai/100 bé gái, khi đến tuổi trưởng thành, tỉ lệ này sẽ tự cân bằng về 100/100 do tỉ lệ bé trai bị tử vong lớn hơn bé gái.
Ông Tân cho biết, với tình hình hiện tại, thế giới đang thiếu 150-175 triệu phụ nữ trong độ tuổi trưởng thành, phần lớn nằm ở Trung Quốc (thiếu 30-40 triệu), kế đó là Án Độ. Dự kiến đến năm 2060, tại Trung Quốc và Ấn Độ cứ 100 phụ nữ thì có tới 160 nam giới trong độ tuổi kết hôn.
“Nếu Việt Nam không có các giải pháp kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, đến 2050 sẽ có 3-4,3 triệu đàn ông không thể lấy được vợ. Đó là điều chắc chắn”, ông Tân cảnh báo.
Ông Tân phân tích, tuổi kết hôn trung bình của nam giới Việt Nam hiện là 27,1 tuổi, như vậy tức từ 2033, tình trạng thiếu phụ nữ sẽ xảy ra và sẽ tiếp tục “tồn kho” tích luỹ sau mỗi năm.
Những nước xuất hiện tình trạng này sớm hơn chúng ta họ làm thế nào? Chính là nhập khẩu cô dâu.
“Hiện Trung Quốc là thị trường nhập khẩu cô dâu lớn nhất Việt Nam, tại Đài Loan có tới hơn 130.000 cô dâu Việt, con số này tại Hàn Quốc là trên 85.000. Nhưng đến chúng ta, nhập ở đâu, chưa nhìn thấy thị trường nào cả. Muốn mua phải có tiền mới mua được, nhưng gia đình bình thường lấy đâu ra tiền nên có người nói, có lẽ tương lai Việt Nam sẽ phải nhập khẩu cô dâu từ châu Phi”, ông Tân nói.
Sẽ xử nặng hành vi lựa chọn giới tính thai nhi
Ông Tân đánh giá, mất cân bằng giới tính khi sinh là hệ quả của việc ít coi trọng phụ nữ và du nhập các kĩ thuật công nghệ lựa chọn giới tính thai nhi.
"Với sự phát hiện của khoa học, hiện đã có những kỹ thuật cho phép phát hiện giới tính thai nhi ngay tuần 1-2 của thai kỳ khiến tình trạng loại bỏ thai nhi gái ngày càng tăng. Chúng ta phải ngăn chặn việc nhập khẩu các công nghệ chỉ nhằm xác định giới tính thai nhi”, ông Tân lo lắng.
Ông Nguyễn Văn Tân. Ảnh: Thúy Hạnh
Để đưa tỉ số giới tính khi sinh về ngưỡng cân bằng, ông Tân cho rằng, giải pháp căn bản, lâu dài vẫn là truyền thông. Song song đó cần nâng cao vị thế của phụ nữ trên mọi lĩnh vực.
Ông Tân dẫn chứng Hàn Quốc từng mất cân bằng giới tính khi sinh khá nặng nề, có vùng lên tới 140 bé trai/100 bé gái nhưng sau 15 năm, quốc gia này đã kiểm soát tốt, đưa về tỉ lệ 106 bé trai/100 bé gái.
“Khi hỏi kinh nghiệm của Hàn Quốc, họ nói rằng do thực hiện tốt việc nâng cao vị thế của phụ nữ, giúp họ chủ động hơn về tài chính, có quyền quyết định nhiều việc, có quyền thừa kế như con trai”, ông Tân cho hay.
Tại xứ ở kim chi, giai đoạn cuối thế kỷ 20 từng có hàng loạt khẩu hiểu như: "Nuôi 1 con gái lớn lên bằng 10 con trai", "Hãy yêu con gái của bạn". Theo thời gian, những khẩu hiệu này ăn sâu vào nhận thức của người dân, chấm dứt tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Tại Việt Nam, ông Tân cho biết luật Dân số đang trong quá trình lấy ý kiến, nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức, khi vi phạm sẽ bị xử phạt rất nặng, có thể tịch thu giấy phép hành nghề vĩnh viễn.
Thúy Hạnh
Tốc độ già hoá dân số Việt Nam nhanh gấp 4 lần các nước
Mỏ vàng không khai thác vẫn còn, cơ cấu dân số “vàng” của Việt Nam không khai thác thì sẽ mất vào năm 2040.