Theo thống kế, năm 2018, cả nước có 4.813 trường bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng sốt rét, giảm 70,16% so với năm 2009, có 12 trường hợp bệnh nhân sốt rét ác tính và 1 trường hợp tử vong do sốt rét. Không có dịch sốt rét xảy ra. Trong đó, ký sinh trùng sốt rét tập trung chủ yếu ở 3 tỉnh gồm Bình Phước, Gia Lai và Đắk Lắk (chiếm 64,66% toàn quốc).
Biểu đồ diễn biến sốt rét giai đoạn 2009 đến 2018
Tuy nhiên, công tác phòng chống sốt rét hiện nay đang gặp một số khó khăn, các kết quả đạt được trong công tác phòng chống sốt rét ở Việt Nam chưa bền vững, ký sinh trùng sốt rét tăng trở lại trong 3 năm gần đây, nguy cơ sốt rét gia tăng vẫn còn rất cao ở nhiều địa phương do nguồn lực đầu tư cho phòng chống sốt rét còn hạn chế. Số người sống trong vùng sốt rét lưu hành còn cao, sốt rét kháng thuốc đã xuất hiện ở một số tỉnh và có nguy cơ lan rộng, muỗi truyền bệnh kháng với hóa chất. Di biến động dân cư giữa vùng có sốt rét lưu hành và vùng không có sốt rét lưu hành, dân giao lưu qua biên giới, tỷ lệ bệnh nhân mắc sốt rét cao ở nhóm đối tượng này và khó kiểm soát.
Bên cạnh đó, kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước và các nhà tài trợ quốc tế bị cắt giảm. Nhiều tỉnh chưa bố trí ngân sách địa phương để chi các hoạt động phòng chống và loại trừ sốt rét gây khó khăn trong việc triển khai các hoạt động phòng chống và loại trừ sốt rét tại địa phương, có thể làm gia tăng cao số mắc và tử vong do sốt rét, nguy cơ bùng phát dịch sốt rét ở nhiều địa phương, đặc biệt tại các vùng sốt rét lưu hành vừa và lưu hành nặng.
Để đạt được mục tiêu của Chiến lược quốc gia phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030 tiến tới loại trừ sốt rét ở Việt Nam, Bộ Y tế mong muốn các các ngành, địa phương cần thực hiện đồng bộ 5 giải pháp:
1. Các cấp Chính quyền, đoàn thể địa phương và cộng đồng với sự hỗ trợ của các cơ quan chuyên môn cần chủ động đầu tư kinh phí, tích cực tham gia vào các hoạt động phòng chống sốt rét tại địa phương.
2. Đảm bảo thực hiện thường xuyên công tác giám sát, phát hiện, chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời, quản lý ca bệnh, quản lý đối tượng dân di biến động, đặc biệt đối với người dân thường xuyên đi rừng, ngủ rẫy, người trở về từ các nước có sốt rét lưu hành. Điều trị bệnh nhân sốt rét đúng thuốc, đủ liều theo quy định của Bộ Y tế.
3. Thực hiện các biện pháp phòng chống muỗi sốt rét.
4. Phối hợp đa ngành trong công tác phòng chống sốt rét (Quốc phòng, Công an, Xây dựng, Giao thông, Lâm nghiệp,...), đặc biệt ở các địa phương có sốt rét lưu hành và sốt rét lưu hành nặng.
5. Nhà nước cần duy trì đầu tư kinh phí ổn định từ nguồn ngân sách Trung ương cho công tác phòng chống và loại trừ bệnh sốt rét theo kế hoạch của Chương trình mục tiêu Y tế - Dân số giai đoạn 2016 - 2020.
Minh An