Thống đốc Nguyễn Văn Bình khẳng định không có mục tiêu bình ổn giá vàng, ngân sách nhà nước và nhân dân hưởng lợi từ chênh lệch giá hiện nay.
Hiều nhầm khái niệm
Trả lời trong trình Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời ngày 5/5, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình khẳng định: Một trong những nội dung bình ổn thị trường là làm sao ổn định được giá cả. Tuy nhiên khái niệm bình ổn một thị trường vàng, tức là thị trường không phải là các mặt hàng ưu tiên, thì giá cả phải do lực lượng thị trường quyết định nhưng không bị chi phối bởi các nhóm lũng đoạn. Đó là cái chúng ta cho rằng là mục tiêu để ổn định thị trường.
Vì thế, ông Bình cho rằng: “Tôi cho rằng có sự hiểu nhầm giữa khái niệm ổn định giá với khái niệm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới”.
Giải thích điều này, Thống đốc nói: Vừa qua, giá vàng trong nước hôm nay là 42 triệu đồng, ngày mai có thể cũng quanh mức 42 triệu nhưng ngày hôm qua chênh lệch giữa giá thế giới có thể là 2 triệu đồng còn hôm nay có thể lên tới 5-6 triệu đồng rồi. Đó là hai khái niệm khác nhau.
Như thế chúng ta thấy giá vàng trong nước về cơ bản vẫn ổn định nhưng so với giá vàng thế giới thì khoảng cách đã giãn ra. Chúng ta hiểu như thế giữa khái niệm là giá vàng trong nước và chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới.
Nói về tình trạng chênh lệch giá vàng, Thống đốc nói, Luật Ngân hàng Nhà nước cũng như Nghị định 24 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng nêu rõ mục tiêu là ổn định thị trường chứ không có mục tiêu ổn định hay làm cho giá trong nước với thế giới thu hẹp.
Đồng tiền của Việt Nam chưa chuyển đổi nên chế độ quản lý ngoại hối so với nhiều nước còn tương đối chặt, hay nói một cách khác những cái tự do trong ngoại hối vẫn còn có nhiều nội dung phải quản lý. Nếu nói rộng ra thì giữa thị trường ngoại hối trong nước và nước ngoài là không liên thông.
Vàng về bản chất là ngoại tệ, ta không sản xuất mà nhập khẩu. Do vậy nếu một bên thị trường ngoại tệ không liên thông mà lại để thị trường vàng liên thông thì chính chúng ta làm tỷ giá bị chao đảo theo giá thế giới. Đó là thực tế trong thời gian trước đây khi chưa có Nghị định 24.
Để đạt được những điều đó thì phải ổn định được giá vàng trong nước một cách tương đối và tránh được tác động lên xuống thất thường của giá, ảnh hưởng đến kinh tế vĩ mô.
Để đạt được yêu cầu giảm chênh lệch giá, Thống đốc nhấn mạnh, do thị trường vàng trong nước - thế giới không liên thông và thị trường vàng trong nước có sự độc lập tương đối nên có sự chênh lệch lúc cao, lúc thấp giữa giá với thế giới.
Qua 5 phiên đấu thầu đầu tiên, giá vàng từ mức 46 – 47 triệu đồng về quanh mức 42 – 43 triệu đồng, chênh lệch với thế giới từ 6 triệu xuống 2,5 – 3 triệu đồng. Thế nhưng khi làm được vậy rồi thì giá vàng thế giới lại sụt quá nhanh nên khoảng cách lại dãn ra quá lớn.
Nếu điều chỉnh ngay giá sát với thế giới như trước đây sẽ tạo ra làn sóng đầu cơ rất lớn và hiện tượng người dân đổ xô đi mua vàng, tỷ giá bị ảnh hưởng. Nhưng thời gian qua, giá có sự ổn định tương đối nên điều đó không xảy ra, động cơ đầu cơ vào vàng không còn hấp dẫn như trước đây nữa.
“Mục tiêu trước mắt và trực tiếp của chúng ta là bình ổn thị trường vàng nói chung và bình ổn giá vàng trong nước để tránh đầu cơ, trục lợi. Nếu chúng ta làm tốt được điều này và ổn định kinh tế vĩ mô, có thể tin tưởng trong trung và dài hạn sẽ đưa giá trong nước về sát thế giới. Còn trong ngắn hạn, chênh lệch này vẫn chưa thu hẹp được ngay”, Thống đốc khẳng định.
Người dân được lợi
Theo Thống đốc, Trước đây với những người có vàng muốn bán thì rõ ràng ở mức độ nào đó họ được hưởng lợi khi giá trong nước cao hơn thế giới. Nhưng với người cần mua vàng, có vẻ là họ bị thiệt vì phải mua với giá cao hơn. Nhưng phải thấy rằng nếu mua giá cao hơn thì cũng bán giá cao. Do vậy sự chênh lệch ở đây không phải là cái thiệt thòi của người mua - bán, mà chỉ là chênh lệch giữa giá mua và giá bán thôi. Còn nếu anh mua giá cao, anh cũng bán được giá cao thì sự chênh lệch ở đây không ảnh hưởng đến lợi nhuận của người mua bán vàng trong nước.
Hoạt động kinh doanh vàng tiêu tốn một lượng ngoại tệ rất lớn - vốn không dồi dào và cần ưu tiên cho các mục tiêu phát triển xã hội. Nhưng vì còn thị trường vàng nên vẫn phải dùng một lượng ngoại tệ nhất định để tạo ra nguồn cung hàng hóa.
Nếu như trước đây cho nhập vàng (tư nhân, các tổ chức kinh tế nhập vàng hoặc nhập lậu) thì toàn bộ sự chênh lệch giá nội - ngoại do các đối tượng kinh doanh này được hưởng và người dân không được gì. Nay toàn bộ do nhà nước đảm nhiệm nên chênh lệch này thuộc về ngân sách nhà nước để đầu tư lại cho nền kinh tế, thực hiện các công trình phúc lợi xã hội.
Về việc thu hẹp chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới, mục tiêu trước mắt và trực tiếp là bình ổn thị trường vàng nói chung trong đó có bình ổn giá trong nước để tránh việc đầu cơ trục lợi do giá lên xuống thất thường. Nếu chúng ta làm tốt công tác này cộng với việc tiếp tục ổn định được kinh tế vĩ mô thì chắc chắn rằng giá trong nước và thế giới sẽ sát lại gần nhau hơn như thực tế trong 5 phiên đấu thầu đầu tiên. Cho nên trung và dài hạn thấy rằng có thể đưa được, thế nhưng trong ngắn hạn khi giá vàng thế giới có biến động thì có thể giãn ra nhưng chỉ là hiện tượng tạm thời.
Nhìn nhận về thực thi chính sách giá vàng thời gian qua của Ngân hàng Nhà nước, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhận định, việc ban hành Nghị định 24 đã xử lý những bất cập, hạn chế của cơ chế, chính sách quản lý thị trường vàng cũ theo Nghị định 174/1999/NĐ-CP trong bối cảnh có sự bất ổn kinh tế vĩ mô và giá vàng thế giới biến động mạnh.
Nghị định 24 được ban hành đã tạo khung pháp lý mới để quản lý hoạt động kinh doanh vàng, từng bước sắp xếp, tổ chức thị trường vàng một cách căn bản, đặc biệt là thị trường vàng miếng. Ngoài ra, Nghị định 24 cũng có các quy định cụ thể để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người dân đối với vàng miếng, vàng trang sức, mỹ nghệ.
Trong hơn một năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã nỗ lực và nhanh chóng triển khai các nội dung quy định tại Nghị định 24 như cấp phép mua, bán vàng miếng cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp đủ điều kiện; tổ chức sản xuất vàng miếng; triển khai nhanh việc chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng nhằm mục tiêu chấm dứt tình trạng “vàng hóa” trong nền kinh tế. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã và đang thực hiện can thiệp để bình ổn thị trường vàng.
Có thể thấy chỉ trong một thời gian tương đối ngắn, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức tốt hoạt động đấu thầu bán vàng miếng một cách công khai, minh bạch nhằm tăng cung vàng miếng cho thị trường. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước còn tiếp tục phải xử lý và cần thêm thời gian để giải quyết tình trạng chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới.
Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do các tổ chức tín dụng đang phải tất toán số dư huy động vốn bằng vàng đã sử dụng để chi trả cho tới ngày 30/6/2013 và giá vàng thế giới biến động bất thường thời gian qua cũng ảnh hưởng tới mức chênh lệch giá.
Như vậy, có thể khẳng định việc ban hành Nghị định 24 là đúng hướng, nhờ đó sự biến động của giá vàng không còn tác động tới sự ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường ngoại tệ và tỷ giá.
PV