- Từ năm 2013 đến nay, quy mô chi ngân sách cho giáo dục luôn tăng về số tuyệt đối, từ 155.604 tỷ đồng năm 2013 đến 248.118 tỷ đồng năm 2017.
20% ngân sách chi cho giáo dục đã đi đâu?
Cấp bù ngân sách càng tăng, ngành sư phạm vẫn khó tuyển thí sinh giỏi
Trong giai đoạn này, Ngân sách Nhà nước chi cho GD-ĐT tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách được Quốc hội và Chính phủ duy trì, trong đó chi thường xuyên cho GDĐT ở Trung ương bình quân khoảng 11%, địa phương khoảng 89%.
Ngân sách chi cho giáo dục luôn tăng. |
Ưu tiên mầm non, tiểu học
Chi ngân sách địa phương tập trung cho mầm non và phổ thông.
Trong đó, THCS và THPT tương đối ổn định qua các năm (khoảng 25,3% đối với THCS, 12% đối với THPT), tiểu học được ưu tiên nhất (trung bình là 32,7%). Mầm non có tốc độ tăng đều về cơ cấu chi trong cả giai đoạn, từ 18% năm 2013 đến 20% năm 2015.
Mức chi cho các bậc học. |
Chi ngân sách địa phương chiếm tỷ trọng nhỏ hơn là đại học (khoảng 2%) và các trình độ khác (khoảng 9%).
Dân góp thêm 2%
Bộ GD-ĐT nhìn nhận: Công tác xã hội hóa giáo dục đã góp phần nâng tỷ lệ huy động trẻ, học sinh trong độ tuổi ra lớp, hoàn thành phổ cập giáo dục trẻ em 5 tuổi, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển loại hình trường, lớp, chương trình chất lượng cao đáp ứng nhu cầu học tập của người dân, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
Nguồn xã hội hoá góp 2% trong số trung bình ngân sách giáo dục |
Việc sử dụng kinh phí, ngân sách nhà nước chi cho GDĐT trung bình của giai đoạn 2013 - 2017 cho các cơ sở GDĐT công lập ở các bậc học khoảng 235.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 20% tổng ngân sách nhà nước); xã hội hóa GDĐT đã đóng góp thêm khoảng 4.700 tỷ đồng (tương đương 2% ngân sách chi cho giáo dục).
Các địa phương đã phát triển các loại hình trường ngoài công lập nhằm giảm áp lực trường lớp cho hệ thống trường công lập, đáp ứng quy mô học sinh tăng nhanh, khắc phục tình trạng thiếu trường lớp, đặc biệt là ở cấp mầm non.
Tỷ lệ trường công lập - ngoài công lập |
Năm học 2017 - 2018, tổng số cơ sở giáo dục các cấp học là 43.907 trường, trong đó có 40.952 trường công lập và 2.955 trường ngoài công lập. Số trẻ em, học sinh ngoài công lập ở nhà trẻ là 85%, mẫu giáo 13%, tiểu học 0,7%, THCS 0,9%, THPT 7% và đại học 13%.
Mô hình trường quốc tế được phát triển mạnh ở một số thành phố lớn (đặc biệt là TP.HCM có 19 trường phổ thông quốc tế, trường có yếu tố nước ngoài với 1.345 giáo viên, 10.799 học sinh trong đó có 5.080 học sinh Việt Nam).
Các chính sách đổi mới cơ chế tài chính
Trong giai đoạn này, công tác tài chính trong các cơ sở GDĐT được đổi mới theo hướng: đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng nguồn tài chính; mở rộng nguồn thu, tăng thu nhập cho người lao động; trích lập các quỹ khen thưởng, phúc lợi chăm lo đời sống cho người lao động và tái đầu tư cho hoạt động đào tạo.
Đáng chú ý là chính sách thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đổi với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 – 2017 được nhìn nhận là đã khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học công lập chủ động khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng đào tạo và giảm chi cho ngân sách nhà nước, đồng thời tăng cơ hội tiếp cận giáo dục đại học cho sinh viên nghèo, sinh viên là đối tượng chính sách.
Việc thí điểm này là thực tiễn để xây dựng cho một chính sách về tự chủ đại học trong các trường công lập đang chờ Chính phủ phê duyệt.
Một số địa phương đã triển khai tự chủ tài chính đối với các cơ sở giáo dục trực thuộc, giao quyền tự chủ tài chính, bảo đảm chi thường xuyên đối với các đơn vị trường học trên địa bàn (các địa phương thực hiện tốt như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, Nam Định, Thái Nguyên, Ninh Bình...).
22 chương trình, dự án ODA: Giới thiệu, tích hợp bài học thế giới
Trong thời gian này, có 22 chương trình, dự án ODA được triển khai, trong đó 16 chương trình, dự án sử dụng vốn ODA vay và 6 chương trình, dự án sử dụng vốn ODA viện trợ không hoàn lại.
Nhiều chương trình ODA hướng tới vùng khó khăn. |
Kết quả được ghi nhận là đã giới thiệu và tích hợp những bài học kinh nghiệm, các mô hình giáo dục tiên tiến của thế giới có thể áp dụng vào Việt Nam, góp phần triển khai hiệu quả mục tiêu, giải pháp chính sách đối với trẻ em dân tộc thiểu số, trẻ em khuyết tật, trẻ em nghèo, các chính sách phát triển mạng lưới trường lớp, phát triển đội ngũ cán bộ, giáo viên vùng khó khăn.
Song Nguyên