Tìm lối giữa rừng: phương pháp “tự chuyển hoá” khi dạy con
Dạy con như thế nào cho đúng luôn là câu hỏi đầy trăn trở với những người đang giữ vai trò làm cha làm mẹ. Câu hỏi đó cứ trở đi trở lại trong mỗi giai đoạn cuộc đời đứa trẻ và không ngừng nảy sinh những vấn đề mới. Nhiều khi khiến người lớn loay hoay, bối rối. Nhiều khi khiến người lớn nhức nhối, tự mâu thuẫn với chính mình. Nhất là, trong xã hội đang vận động một cách đa dạng, phức tạp ngày nay, nỗi trăn trở đó ngày một phình to.
Mà không chỉ có trăn trở. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, những quan niệm và phương pháp giáo dục của phương Đông, phương Tây, truyền thống, hiện đại đối thoại, đan xen, tiếp biến nhau. Các bậc cha mẹ vốn đã nhiều băn khoăn, giờ lại thêm “hoang mang” trước rừng ý niệm giáo dục. Chúng ta nên lựa chọn hướng đi nào giữa khu rừng ấy? Có cây kim chỉ nam nào để định hướng hay không? Quyển sách Dạy con trong hoang mang (tập 1) của tác giả Lê Nguyên Phương là một người đồng hành đáng tin cậy giữa khu rừng ấy.
Làm thế nào để 'dạy con trong hoang mang' là câu hỏi trăn trở với không ít phụ huynh. |
Với kinh nghiệm của một nhà khoa học nghiên cứu chuyên sâu về tâm lý, đồng thời, giữ vai trò tham vấn tâm lý học đường trong hai mươi năm qua tại các trường học ở Mỹ, tiến sĩ Lê Nguyên Phương khát khao chia sẻ cái nhìn và cảm nhận của mình trước các vấn đề mà cha mẹ ngày nay thường gặp phải trong quá trình giáo dục con. Theo tác giả, điểm mấu chốt mang đậm tính triết lý, đồng thời, đòi hỏi các bậc phụ huynh phải thực nghiệm để đạt được hiệu quả tốt khi dạy con chính là “sự chuyển hoá chính bản thân mình” của mỗi một người lớn để tác động, “chuyển hoá” đứa trẻ.
Nguyên lý trung tâm này sẽ trở thành kim chỉ nam, vận hành trí tuệ và tâm lý con người để cùng hướng đến mục tiêu lớn lao nhất: giúp cho mỗi đứa trẻ thành một con người tích cực, một con người hạnh phúc trong suốt cuộc đời quý giá của mình.
Những ngộ nhận trong tri thức dạy con
Để tìm ra lối đi, Lê Nguyên Phương “gấp bội” nỗi hoang mang của chúng ta lên lần nữa. Phải chăng con cái đạt được thành công là mục đích tối thượng? Chỉ số thông minh là giá trị để đánh giá một đứa trẻ? Người nhớ nhiều kiến thức là người giỏi nhất? Khi trẻ con làm được điều gì đáng khích lệ, thì chúng ta khen “con giỏi” là đúng? Những thủ khoa trên ghế nhà trường sẽ luôn luôn là “thủ khoa” trên đường đời? Càng suy ngẫm trước nhiều câu hỏi, ta càng đạt đến “tri kiến”, càng đỡ “hoang mang”.
Bằng những câu chuyện có thật gây xao động và suy tư, cùng với những lập luận khoa học, thuyết phục, tác giả khiến chúng ta phải tự soi ngắm lại chính mình: cách quan niệm về cuộc đời, mục tiêu sống, cách thế sống,… để từ đó, mới xác lập được phương pháp giáo dục con cái hiệu quả. Cái chết của cậu học trò (thuộc diện học sinh ưu tú trong trường) vì lo âu, sợ hãi, trầm cảm dẫn đến hành vi tự vẫn do áp lực học tập là lời cảnh tỉnh cho toàn xã hội về những cuộc đua thành tích đã tước đoạt niềm vui trong trẻo của trẻ thơ.
Tiến sĩ Lê Nguyên Phương - tác giả quyển sách. |
Thành công của đứa trẻ phải đi liền với niềm hạnh phúc mà đứa trẻ cảm nhận được, chứ không phải chỉ là hạnh phúc của cha mẹ. Và thông điệp mà tác giả đưa ra thực sự khiến chúng ta phải ngẫm nghĩ: “Hãy giúp các em tự tìm định nghĩa cho hạnh phúc và lý tưởng của riêng mình. Vì không ai có thể bình an với một thành công không có bóng dáng của hạnh phúc. Và vô nghĩa” (trang 55).
Xây dựng những phẩm chất cho đứa trẻ
Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những thiên kiến dễ gây lệch lạc trong việc định hình và phát triển một con người. Việc đề cao đến mức tuyệt đối hoá chỉ số thông minh (IQ) khiến cho chúng ta quên mất chỉ số cảm xúc (EQ) cũng như những khả năng, phẩm chất khác của con người và tạo ra hệ thống phân loại trẻ em chỉ dựa trên IQ. Việc khen ngợi “những cuốn từ điển sống”, “cuốn tri thức bách khoa sống” đã duy trì sự xưng tụng khả năng ghi nhớ (cấp độ tư duy đầu tiên trong tháp tư duy của con người, chẳng hạn như thang Bloom, bao gồm 6 bậc: ghi nhớ, thông hiểu, áp dụng, phân tích/ tổng hợp, đánh giá, sáng tạo).
Từ đó, chúng ta quen biến mình thành những “cái bị sách” chứa kiến thức do người khác tạo ra hơn là thực hành và sáng tạo tri thức. Do đó, tụng ca IQ sẽ giam nhốt đứa trẻ vào niềm kiêu hãnh định mệnh về trí thông minh hoặc nỗi mặc cảm có tính số phận về chỉ số IQ thấp và không còn muốn phấn đấu để vươn lên. Cũng như vậy, tung hô trí nhớ sẽ bào mòn năng lực sáng tạo của đứa trẻ và tuyệt đối hoá lối học từ chương.
Khen con cũng cần phải suy ngẫm
Còn về khen thưởng thì sao? Nhận định của tác giả về việc cha mẹ thường xuyên khen con giỏi cũng gây ra tác hại có lẽ sẽ khiến chúng ta ngạc nhiên và tò mò. Tại sao khen lại gây ra sai lầm? Và “khen con phải lối” là khen như thế nào? Tiến sĩ Lê Nguyên Phương cho rằng, việc khen con giỏi thường xuyên, quá đà hoặc mang tính hình thức sẽ gây ra sự tự mãn, mất động lực phấn đấu, thậm chí thờ ơ, vô cảm với lời khen. Bởi vậy, tác giả cũng như nhiều nhà nghiên cứu tâm lý trên thế giới cho rằng cần khen con trẻ đúng mực, thực chất và tạo ra sự khuyến khích để thúc đẩy trẻ.
Thay vì khen giỏi, chúng ta có thể thay bằng những từ ngữ khác như “con đã nỗ lực để hoàn thành việc này”, “con đã cố gắng rất nhiều để đạt được mục tiêu”. Bởi lẽ, từ “giỏi” mặc định năng lực sẵn có và khi đứa trẻ tự thấy mình không giỏi ở khía cạnh nào đó, đứa trẻ sẽ dễ dàng bỏ cuộc. Còn khi trẻ thấy “nỗ lực”, “cố gắng” cũng là một phẩm chất, và là phẩm chất rèn luyện được, có tính quá trình, có thể sở đắc, trẻ sẽ phấn đấu hết mình vì mục tiêu.
Những mô thức giáo dục con trẻ
29 bài viết trong tập sách này là 29 suy tư, chiêm nghiệm và giải pháp để nuôi dạy trẻ. Nhiều vấn đề khác nhau được đề cập trong cuốn sách: nuôi con thế nào giữa thế giới công nghệ, làm sao để bước ra khỏi tâm thức kỳ thị người khuyết tật, người làm những công việc thường bị xem là “hèn kém”, làm sao để tạo ra môi trường tự do, bình đẳng thực sự cho đứa trẻ về giới tính, tâm lý, cảm xúc, trí tuệ, sở thích,… Và các mô thức ở bài cuối cùng (tác giả tiếp thu từ lý thuyết của Diana Baumrind) đã khái quát hoá các xu hướng nuôi dạy con mà chúng ta thường chứng kiến, trải nghiệm trong các gia đình: lối độc đoán (authoritarian), lối nuông chiều (permissive hay indulgent), lối phó mặc (uninvolved), lối từ nghiêm (authoritative). Trong đó, lối từ nghiêm (cha mẹ vừa uy nghiêm để tạo ra nề nếp, vừa từ bi để nâng đỡ, chia sẻ với con cái) được tác giả cổ xuý.
Sự dấn thân can đảm của người làm cha mẹ
Người Việt Nam thường có câu: “Nuôi con đã khó, dạy con còn khó hơn”. Quả thực, những ai đã trải nghiệm vai trò làm cha, làm mẹ đều thấm thía nỗi khó ấy. Nhưng thử thách nào cũng có hương mật ngọt ở cuối hành trình, nếu chúng ta thực sự nỗ lực và tận tâm vì mục đích mình hướng tới. Việc nuôi dạy một đứa trẻ thành người tử tế và hạnh phúc luôn là niềm vui lớn lao với mỗi người cha, người mẹ. Vì vậy, đừng ngần ngại dấn bước vào rừng, bởi trong rậm rạp của đời, mỗi người sẽ tìm ra lối đi giúp mình tự trưởng thành, và giúp hậu duệ của mình trưởng thành.
Các đoạn trích dẫn
“Phụ huynh hãy tự chuyển hoá mình để giáo dục con. Hãy hoá giải những khổ đau trong tâm hồn mình, tăng trưởng trí tuệ trong não mình, và chú tâm hơn trong sinh hoạt hàng ngày của mình”.
“Con em chúng ta không phải là phương tiện để chúng phải hy sinh làm vật thí nghiệm và lối giải toả cho tham vọng, sợ hãi, mặc cảm của chúng ta”.
“Lối dạy con theo kiểu độc đoán có thể xây dựng nên những đứa con lễ phép và biết vâng lời. Nhưng hậu quả tiêu cực có thể thấy ngay là sự tức giận, bất mãn và uất ức của con cái khi chúng bị đàn áp để tuân phục”.
“Chúng ta có thể mong con không phải khổ cực trong mưu sinh như chúng ta, nhưng không nên biến chúng thành những đền bù cho những gì chúng ta chưa làm được”.
“Hãy giúp các em tự tìm định nghĩa cho hạnh phúc và lý tưởng của riêng mình. Vì không ai có thể bình an với một thành công không có bóng dáng của hạnh phúc. Và vô nghĩa”.
“Nỗi sợ hãi thường trực trong xã hội khiến cho việc giao tiếp giữa người và người trở nên giả dối. Chúng ta sẽ không chỉ đánh mất sự chân thật với mọi người mà còn cả với chính mình”.
Tiến sĩ Hồ Khánh Vân
Bài học từ nước Nhật: Chấn hưng trở lại sau khủng hoảng
Điểm khác biệt giữa các quốc gia thành công với phần còn lại là họ tìm được cách để không chỉ “sống sót” qua khủng hoảng.