Đoàn đại biểu Việt Nam đã sẵn sàng lên đường đến Thụy Sỹ nhằm bảo vệ Báo cáo quốc gia thực thi Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) lần thứ 5 tại Kỳ họp thứ 111 của Ủy ban Công ước ở Geneve.
Thông tin về việc bảo vệ Báo cáo Quốc gia lần thứ 5 của Việt Nam thực thi Công ước Xóa bỏ mọi hình thức Phân biệt Chủng tộc (CERD), tại hội nghị cung cấp thông tin về công tác nhân quyền và thông tin đối ngoại tháng 11/2023, bà Trần Chi Mai, Phó vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Ủy ban Dân tộc cho biết, Công ước CERD ra đời từ năm 1965, là công ước lên án nạn phân biệt chủng tộc và xác lập nghĩa vụ cho các quốc gia thành viên phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết và không trì hoãn các chính sách nhằm loại trừ các hình thức phân biệt dựa trên chủng tộc, màu da, dòng dõi, dân tộc hoặc gốc người thiểu số.
Nội dung chính của Công ước là các quốc gia thành viên cam kết sẽ cấm và xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc dưới mọi hình thức, đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật của tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, màu da, nguồn gốc quốc gia hay sắc tộc, đặc biệt trong việc thụ hưởng các quyền cơ bản của con người, gồm các quyền dân sự-chính trị và các quyền kinh tế-xã hội-văn hóa.
Hiện đã có 181 quốc gia trên thế giới là thành viên của Công ước này.
Việt Nam đã tham gia Công ước CERD từ năm 1982 và đã 4 lần bảo vệ thành công Báo cáo Quốc gia thực thi Công ước CERD vào các năm 1983, 1993, 2000, 2012. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tuyên truyền về những thành tựu bảo vệ nhân quyền của ta nói chung, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với người dân tộc thiểu số, người nước ngoài ở Việt Nam, góp phần bác bỏ các luận điệu vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch, cũng như tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và cộng đồng quốc tế.
Phiên bảo vệ Báo cáo Quốc gia lần thứ năm thực thi Công ước CERD của Việt Nam (Báo cáo CERD 5) sẽ diễn ra trong 2 ngày 29-30/11 tại Geneva, Thụy Sĩ.
Báo cáo CERD 5 là một báo cáo về các biện pháp lập pháp, hành chính, tư pháp hoặc các biện pháp khác và kết quả triển khai các biện pháp đó, giai đoạn 2013-2019 nhằm bảo vệ Quyền con Người, chống các hành vi kỳ thị, phân biệt về chủng tộc tập trung vào người dân tộc thiểu số, người nước ngoài ở Việt Nam; tuyên truyền các thành tựu bảo vệ nhân quyền cho người dân tộc thiểu số, người nước ngoài ở Việt Nam, nhận diện các khó khăn, thuận lợi trong việc thực hiện Công ước trong giai đoạn báo cáo và định hướng triển khai trong tương lai.
Nội dung chủ yếu của báo cáo khẳng định chủ trương, đường lối nhất quán của Đảng, Chính phủ Việt Nam về các dân tộc thiểu số như đã được ghi rõ trong Điều 5, Hiến pháp năm 2013, hoàn toàn phù hợp với định nghĩa về chống phân biệt chủng tộc tại Điều 1 Công ước CERD; chia sẻ những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong công tác dân tộc, giai đoạn từ 2013 đến 2023.
Giai đoạn 2013-2019, Việt Nam đạt được rất nhiều thành tích nổi bật trong công tác đại đoàn kết toàn dân, hỗ trợ các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, ngôn ngữ, chữ viết... giúp Liên hợp quốc và bạn bè quốc tế có cái nhìn toàn diện hơn về Việt Nam.
Báo cáo cũng khẳng định cam kết của Việt Nam trong thực hiện quyền, nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước qua những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế và bảo vệ giá trị phổ quát về Quyền con Người nói chung, những nỗ lực của Việt Nam trong việc góp phần xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử nói riêng...
Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống lâu đời, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với hơn 14 triệu người, chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước. Đường lối chính trị của nhà nước Việt Nam luôn khẳng định, các dân tộc thiểu số là bộ phận không thể tách rời quốc gia dân tộc và luôn coi trọng việc bảo đảm quyền chính trị, kinh tế, văn hóa, không phân biệt đối xử. Trong đó, có quyền tham gia vào hệ thống chính trị nhà nước, đặc biệt là đối với cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội.
Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc hoặc kích động thù hằn dân tộc. Những hành vi phân biệt chủng tộc hoặc hỗ trợ các hoạt động gây chia rẽ, kỳ thị và phân biệt chủng tộc đều bị pháp luật Việt Nam nghiêm cấm, trừng trị nghiêm khắc (Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật công chức, Luật viên chức, Luật Lao động, NĐ88/2015/ND-CP,…)
Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013 ghi nhận quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân Việt Nam, không phân biệt dân tộc thiểu số hay đa số, chủng tộc, tôn giáo, không phân biệt đối xử, trong đó có quyền bầu cử, ứng cử.
Để tăng cường sự tham gia của đại diện các dân tộc trong cơ quan Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội (1997) ghi rõ: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa , nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội theo quy định của pháp luật” (Điều 2); “Số đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số do Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến theo đề nghị của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, bảo đảm để các thành phần dân tộc thiểu số có số đại biểu thích đáng” (Điều 10).
Theo TS Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội "Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm quyền chính trị, trong đó có quyền bầu cử, ứng cử cho người dân tộc thiểu số, bảo đảm tỷ lệ thích đáng, phù hợp đại diện các dân tộc trong cơ quan Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp".
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân (2016) tiếp tục chỉ rõ: “Số lượng người dân tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, bảo đảm ít nhất 18% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số” (Khoản 2, Điều 8).
Luật năm 1997 có giao một cơ quan Quốc hội là Hội đồng Dân tộc đảm trách việc chuẩn bị nhân sự là người dân tộc thiểu số ứng cử Quốc hội đã thể hiện việc tăng cường vị thế của cơ quan đại diện dân tộc trong Quốc hội trong công tác bầu cử. Trong khi đó, Luật năm 2016 đã có sự phát triển thêm một bước khi quy định tỷ lệ tối thiểu ứng cử đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số về mặt định lượng (18%).
Ông Lâm Thành dẫn chứng, số lượng đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số luôn chiếm tỷ lệ cao so với tỷ lệ dân số trong 3 nhiệm kỳ Quốc hội gần đây. Trong đó, nhiệm kỳ khóa XIII (2011-2016), tỷ lệ dân tộc thiểu số đạt 15,6%, nhiệm kỳ khóa XIV (2016-2021) đạt 17,3% và nhiệm kỳ khóa XV (2021-2026) đạt 17,8 %, với 89/499 đại biểu của 32 dân tộc trúng cử, cao nhất các khóa Quốc hội, tức gần với chỉ tiêu quy định mới về ứng cử viên dân tộc thiểu số theo luật định (18%).
Ngoài ra, tỷ lệ người dân tộc thiểu số tham gia Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nhiệm kỳ 2021-2026 là 17,09%, cấp huyện là 18,23%, cấp xã là 20,55%.
Về cơ cấu thành phần các dân tộc, mỗi nhiệm kỳ Quốc hội đều có đại diện của từ 28-32 dân tộc. Một số dân tộc có dân ít (dưới 10.000 người, đặc biệt dưới 1.000 người) sinh sống ở các vùng núi cao, hẻo lánh cũng có đại diện tham gia Quốc hội.
Đến nay, đã có tổng số 52/54 dân tộc (bao gồm cả dân tộc Kinh) và 51/53 dân tộc thiểu số đã có đại diện tham gia Quốc hội qua các khóa. Hiện chỉ còn 2 dân tộc Ơ Đu (số dân dưới 1.000 người) và Ngái (số dân dưới 2.000 người) chưa có đại diện tham gia các khóa Quốc hội và đây cũng là mục tiêu Việt Nam phấn đấu để các dân tộc có đại biểu Quốc hội.