Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Mục tiêu chung xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa đồng thời phát triển nông nghiệp dựa trên lợi thế địa phương, theo hướng hiện đại có năng suất, chất lượng, hiệu quả, bền vững và sức cạnh tranh cao thuộc nhóm dẫn đầu trong khu vực và trên thế giới.
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của Việt Nam hiện nay là 11,9%, cao hơn mức trung bình của thế giới là 4,3%. Tăng trưởng nông nghiệp trung bình hàng năm là 3,5%, cũng cao hơn mức trung bình của châu Á và khu vực Đông Nam Á. Nhưng tỷ trọng số hoá trong nông nghiệp theo ước tính của Bộ TT&TT thì mới đạt 2,1%, tức là mức thấp so với thế giới. Đây là một tin vui, vì chúng ta có nhiều dư địa, nhiều cơ hội để làm, để thay đổi. Nhưng cũng là một lo lắng vì mục tiêu mà Chính phủ đặt ra cho ngành Nông nghiệp trong Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số là đến năm 2025, tức là chỉ còn gần 2 năm nữa, ngành Nông nghiệp phải đạt tỷ trọng kinh tế số là 10%.
Nghiên cứu quốc tế cho thấy, chuyển đổi số của ngành Nông nghiệp sẽ cho phép lao động nông nghiệp giảm được tới 23% chi phí. Quản lý đất đai nông nghiệp bằng công nghệ số, nhất là GPS, giảm được chi phí tới 14%. Dùng công nghệ số để bón phân tuỳ biến theo từng loại cây trồng thì tiết kiệm được tới 12%. Lái xe tự động trong nông nghiệp cũng giúp giảm tới 13% chi phí. Như vậy, công nghệ số, chuyển đổi số, tự động hoá sẽ giúp ngành nông nghiệp giảm được rất nhiều chi phí. Chi phí cho công nghệ số, chuyển đổi số sẽ nhỏ hơn rất nhiều so với phần chi phí tiết kiệm được.
Góp bàn tại Hội nghị chuyên đề toàn quốc về "Thúc đẩy số hoá ngành Nông nghiệp" là nhằm chuyển đổi số và phát triển kinh tế số ngành Nông nghiệp, Bộ trưởng Bộ TT và TT Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ, chuyển đổi số thì khó ở chỗ xây dựng hạ tầng dữ liệu và phát triển nền tảng số, nhưng chuyển đổi số lại dễ ở chỗ dễ sử dụng và dễ phổ cập. Một phần mềm, một nền tảng số, để tại một chỗ, vận hành khai thác tại một chỗ là hàng triệu người dùng chung, hàng triệu người này lại có thể phân tán ở tất cả các xã, các thôn bản. Sử dụng nền tảng số thì dễ như là dùng Zalo, không khó như là dùng các phần mềm CNTT. Như vậy, chuyển đổi số là khó ở một nơi mà dễ ở những nơi còn lại.
Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, ngành Nông nghiệp là ngành nhiều dữ liệu nhất nhưng lại là ngành thu thập được ít dữ liệu nhất và vì vậy cũng khó quản lý nhất. Không có dữ liệu thì không có chuyển đổi số. Không có dữ liệu thì cũng không có quản lý. Có dữ liệu thì chuyển đổi số lại thành việc dễ. Cho nên, việc đầu tiên cần làm để chuyển đổi số ngành Nông nghiệp là xây dựng các cơ sở dữ liệu. Và việc này thì Bộ Nông nghiệp phải là người chỉ đạo xây dựng. Dữ liệu của ngành Nông nghiệp thì phải là việc của ngành Nông nghiệp"
Nhưng dữ liệu để tạo ra các giá trị mới, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế số thì lại là các dữ liệu được sinh ra hàng ngày do sử dụng. Thí dụ người dân mua bán nông sản hàng ngày, tình hình sâu bệnh, mưa nắng hàng ngày của từng thôn, xã. Cách thu thập dữ liệu ở đây là thông qua các nền tảng số. Một số nền tảng số nông nghiệp dùng chung cần tập trung phát triển và thúc đẩy sử dụng là: Nền tảng dữ liệu số nông nghiệp, Nền tảng truy xuất nguồn gốc nông sản, Nền tảng sàn thương mại điện tử nông nghiệp, Nền tảng tối ưu hóa chuỗi cung ứng, v.v... Các nền tảng số dùng chung này thì Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nên chỉ đạo xây dựng. Các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam hoàn toàn đủ năng lực để xây dựng các nền tảng số này.
"Gốc của xoá nghèo nông dân là giá nông sản cao. Công nghệ cao thì tạo ra năng suất, chất lượng nhưng sản phẩm thì đại trà và vì vậy khó mà có giá cao. Những mảnh đất, mảnh vườn, làng, xã, cây trồng, người nông dân thì có địa chỉ duy nhất và do vậy, có thương hiệu duy nhất. Thương hiệu thì tạo ra giá cao. Để có được thương hiệu đến từng hộ gia đình nông dân, từng cái cây thì phải truy xuất được nguồn gốc nông sản. Công nghệ số có thể giải được bài toán truy xuất nguồn gốc nông sản.", Bộ trưởng Bộ TT và TT nhấn mạnh.