1. Danh tướng nào giỏi ngoại ngữ nhất sử Việt?

  • Trần Nhật Duật
    0%
  • Trần Ích Tắc
    0%
  • Trần Khánh Dư
    0%
  • Trần Bình Trọng
    0%
Chính xác

Trần Nhật Duật (1255-1330) được biết tới là nhà ngoại giao tài giỏi của triều Trần. Sách Danh tướng Việt Nam viết: "Trần Nhật Duật nổi tiếng hiểu nhiều biết rộng. Ngoài việc thông thạo nhiều ngoại ngữ, ông còn hiểu biết sâu rộng các nước láng giềng. Học tiếng Tống, tiếng Chiêm Thành, Nhật Duật chẳng những sử dụng thông thạo các ngôn ngữ ấy mà còn tìm hiểu nhiều mặt của các nước đó. Đối với các dân tộc trong nước, Nhật Duật không những hiểu tiếng mà còn hiểu cả tâm tư người khác".

Ngoài 20 tuổi, Trần Nhật Duật được triều đình giao đặc trách những công việc về các dân tộc có liên quan. Có lần tiếp xúc với sứ thần nhà Nguyên, ông vui vẻ, tự nhiên trò chuyện suốt một ngày, khiến sứ Nguyên cho rằng Nhật Duật là người Hán ở Chân Định (nước Triệu cũ) đang làm quan bên Đại Việt.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào thời vua Trần Nhân Tông, một lần sứ giả nước Sách Mã Tích (tên cổ của Singapore) sang cống, nhưng triều đình không tìm được người phiên dịch. Cả thành Thăng Long chỉ có mình Trần Nhật Duật dịch được và nói chuyện trôi chảy bằng thứ ngôn ngữ lạ với sứ giả nước bạn.

Tài ngoại ngữ của Trần Nhật Duật khiến vua Nhân Tông rất thán phục. Có lần vua còn nói đùa: “Chiêu Văn Vương có lẽ không phải người Việt mà là hậu thân giống Phiên, Man" (chỉ các dân tộc lân bang ở vùng Đông Nam Á thời đó).

2. Ông là con của vua nào?

  • Trần Nhân Tông
    0%
  • Trần Thái Tông
    0%
  • Trần Thánh Tông
    0%
  • Trần Nghệ Tông
    0%
Chính xác

Trần Nhật Duật là con thứ 6 của vua Trần Thái Tông, sinh tháng 4/1255 tại hoàng cung Thăng Long. Sự ra đời của Trần Nhật Duật được nhiều sách sử ghi chép lại vì là chuyện lạ.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết như sau: “Đạo sĩ cung Thái Thanh tên là Thậm cầu tự cho vua. Đọc sớ xong tâu với vua Thượng đế đã y lời sớ tấu, sắp sai Chiêu Văn đồng tử giáng sinh, ở trần thế bốn kỷ. Thế rồi hậu cung có mang. Sau quả nhiên sinh con trai, hai cánh tay có chữ Chiêu Văn đồng tử, nét chữ rất rõ, vì thế đặt hiệu là Chiêu Văn (tức là Nhật Duật). Lớn lên, nét chữ mới mất đi”.

3. Ông từng thu phục quân nổi loạn bằng cách nào?

  • Sự tinh thông ngôn ngữ và văn hóa dân tộc
    0%
  • Viết thư dụ quân nổi loạn quy hàng bằng tiếng dân tộc
    0%
  • Vận dụng cách đánh linh hoạt, khoét sâu điểm yếu của quân nổi loạn
    0%
  • Dùng tiếng ngựa và trống thúc khiến quân nổi loạn hốt hoảng tưởng bị tấn công
    0%
Chính xác

Năm 1280, Trịnh Giác Mật, một tù trưởng địa phương ở Đà Giang (Hòa Bình ngày nay) nổi lên chống lại triều đình. Trần Nhật Duật được lệnh đem quân dẹp loạn.

Khi đến Đà Giang, Trịnh Giác Mật sai người đưa thư nói: “Giác Mật không dám trái lệnh triều đình, nếu ân chúa dám một mình một ngựa mà đi đến thì Giác Mật xin hàng ngay”. Bất chấp các tướng can ngăn, Trần Nhật Duật nhận lời rồi đem các tiểu đồng cùng đi.

Khi tới đại bản doanh của những kẻ nổi loạn, ông thản nhiên đi giữa hàng lính mặc sắc phục kì dị, lăm lăm gươm giáo được bày ra để dọa dẫm. Trần Nhật Duật nói với chuyện Giác Mật bằng chính ngôn ngữ và theo đúng phong tục của dân tộc vùng Đà Giang. Thậm chí, ông còn “ăn bằng tay, uống bằng mũi” như phong tục của họ.

Chính sự hiểu biết về văn hóa của Trần Nhật Duật khiến Trịnh Giác Mật kinh ngạc thốt lên “Chiêu Văn Vương là anh em với ta”. Sau buổi gặp gỡ, Trịnh Giác Mật đã đem cả gia thuộc đến doanh trại Trần Nhật Duật xin hàng phục triều đình. Nhờ vâỵ, cả miền Đà Giang đã được Trần Nhật Duật thu phục chỉ bằng sự tinh thông ngôn ngữ và văn hóa dân tộc, không phải đổ một giọt máu nào. 

4. Ông từng được giao chỉ huy trận đánh lịch sử nào?

  • Trận Chương Dương
    0%
  • Trận Hàm Tử
    0%
  • Trận Vạn Kiếp - Lục Đầu
    0%
  • Trận Tây Kết
    0%
Chính xác

Sách Danh tướng Việt Nam ghi, tài cầm quân của Trần Nhật Duật sớm được thể hiện, đặc biệt là tư duy quân sự trong các lần chiến thắng quân Nguyên - Mông. Chính sử ghi chép rất kỹ biệt tài quân sự của ông trong chiến thắng Hàm Tử Quan tháng 5/1285. Sách Đại việt sử ký toàn thư từng chép rằng “công đánh giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả”.

5. Ông làm quan trải qua mấy triều vua?

  • 2
    0%
  • 3
    0%
  • 4
    0%
  • 5
    0%
Chính xác

Trần Nhật Duật làm quan dưới 4 triều vua là Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Ông từng được phong là Đại vương vào năm 1329, dưới thời vua Trần Minh Tông.

Trần Nhật Duật mất năm 1330, đời vua Trần Hiến Tông. Sử sách ghi chép ông là tướng tài, nhã nhặn, độ lượng, khoan dung. Tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với chặng đường vinh quang nhất của triều Trần.