LTS: Tuần Việt Nam mở Diễn đàn "Vì Việt Nam hùng cường" với mong muốn thu nhận từ quý độc giả những ý kiến, bài viết về các giải pháp phát triển đất nước trong tất cả các lĩnh vực nhằm khơi thông tiềm năng phát triển, cổ vũ niềm tin của cộng đồng vào tương lai Việt Nam.

Chủ đề đầu tiên của Diễn đàn tập trung vào thể chế kinh tế. Mời quý vị cùng theo dõi. 

Hôm vừa rồi tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu: Đừng có kỳ thị với kinh tế tư nhân, phải công bằng. Tôi đề nghị sắp tới nơi nào làm tốt phải biểu dương, khen thưởng, thậm chí phong danh hiệu anh hùng cho doanh nghiệp tư nhân.

Lời phát biểu của người đứng đầu Đảng và Nhà nước thể hiện sự coi trọng, động viên rất lớn cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển.

Trong phạm vi bài này tôi sẽ cố gắng phân tích góc độ pháp lý liên quan đến phá sản nhằm tạo lập môi trường kinh tế lành mạnh giúp cho các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhân lời động viên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước.

Điều đầu tiên có nhận thức thống nhất, sẽ không có môi trường kinh doanh lành mạnh khi những doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc lại cùng hoạt động bên cạnh những doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản.

Xin lấy một ví dụ nhỏ, những doanh nghiệp đã phá sản, không còn trả được nợ đến hạn mà vẫn đi tìm kiếm các hợp đồng thì sẽ gây rủi ro cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính.

Để cho môi trường kinh doanh lành mạnh, cần phải cho phá sản những doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản.

Song thực tế, Luật phá sản doanh nghiệp đầu tiên được thông qua năm năm 1993, được thay thế bằng Luật phá sản năm 2004 và năm 2014 nhưng số vụ phá sản được thực thi rất ít ỏi. Ít đến nỗi không cả có số liệu thống kê về doanh nghiệp phá sản.

{keywords}
Sẽ không có môi trường kinh doanh lành mạnh khi những doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc lại cùng hoạt động bên cạnh những doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản. Ảnh: Lê Anh Dũng

Theo Tổng cục thống kê, năm 2018 cả  nước có 90.651 doanh nghiệp ngừng hoạt động, trong đó bao gồm 27.126 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, 63.525 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể. Trong số 63.525 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể thì có 44.730 doanh nghiệp ngừng hoạt động không đăng ký và 18.795 doanh nghiệp chờ giải thể.

Như vậy, không thấy có số liệu về doanh nghiệp phá sản trong các dữ liệu của Tổng cục thống kê, nhưng có thể áng chừng số đó nó nằm trong con số 44.730 doanh nghiệp ngừng hoạt động không đăng ký. Đó là còn chưa kể đến những doanh nghiệp mặc dù đã mất khả năng trả nợ rồi nhưng vẫn dây dưa lay lắt hoạt động.

Chỉ số giải quyết phá sản doanh nghiệp của Việt Nam, theo Bảng xếp hạng Doing Business 2019 của Ngân hàng Thế giới, chỉ đạt 34,93 điểm, xếp hạng 133/190 quốc gia. Sau nhiều năm, chỉ số này không được cải thiện, thậm chí còn đi xuống.

Để tạo ra môi trường kinh tế lành mạnh cần thực hiện thủ tục phá sản cho những doanh nghiệp đã không trả được nợ trong vòng ba tháng kể từ ngày đến hạn, theo đúng quy định của Luật phá sản. Bằng cách đó sẽ giúp tất toán mọi quan hệ nghĩa vụ hợp đồng, kết thúc một chu kỳ quan hệ hợp đồng trách nhiệm, làm minh bạch nền kinh tế.

Điều đó còn đem lại lợi ích lớn cho cộng đồng doanh nhân. Chúng ta cứ hình dung, trong số 44.730 doanh nghiệp tạm coi là lâm vào tình trạng phá sản trên kia, rất nhiều trong số này là những công ty TNHH hoặc công ty Cổ phần do từ hai doanh nhân trở lên thành lập.

Vậy nên khi thực hiện thủ tục phá sản sẽ giúp cho số doanh nhân (nhiều hơn gấp mấy lần con số 44.730 doan nghiệp) thoát khỏi những mối dây nhợ chằng chịt nợ nần, tất toán các mối quan hệ nghĩa vụ, giúp họ khỏe khoắn trở lại và có thể tái gia nhập vào nền kinh tế.

Cộng đồng doanh nghiệp còn lại cũng sẽ hưởng lợi về sự yên tâm khi xung quanh không còn những doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản, bởi không ai muốn làm ăn với một doanh nghiệp như vậy.

Bằng cách đó môi trường kinh doanh sẽ được sàng lọc đảm bảo chỉ có những doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc lành mạnh mới được hoạt động, theo đó cơ chế quản lý nhà nước sẽ tạo ra môi trường kinh doanh có tính bảo hiểm cho các doanh nghiệp.

Vì sao ít doanh nghiệp phá sản?

Hiện nay thủ tục phá sản là một quy trình tư pháp do Tòa án tiến hành. Có nhiều nguyên nhân khiến rất ít doanh nghiệp hoàn tất thủ tục phá sản.

Đầu tiên, do những nhiêu khê của quy trình thủ tục tư pháp khiến cho bên chủ nợ e ngại mắc vào một vụ việc pháp lý mà chưa chắc kết quả đã đem lại lợi ích gì. Đây là lý do khiến nhiều khoản nợ đã quá hạn 3 tháng mà chẳng mấy chủ nợ thiết tha với việc gửi đơn yêu cầu phá sản ra tòa án.

Điều cần làm là rà soát lại quy trình thủ tục tư pháp để biến việc phá sản thành cơ chế bảo hộ quyền lợi chính đáng cho bên có quyền, thay vì để đó là mối rắc rối khiến người ta không muốn dây vào, mà theo đó quyền lợi chính đáng bị bỏ mặc không được bảo hộ.

Tiếp đến, do sự yếu kém yếm thế của các thẩm phán tòa án. Họ kém mạnh mẽ trong việc thụ lý và tuyên bố một doanh nghiệp phá sản do lo ngại ảnh hưởng đến doanh nghiệp vẫn còn đang hoạt động với nhiều người lao động. Quy định pháp luật đã có nhưng hành lang pháp lý đó không đủ bảo đảm sự an toàn cho thẩm phán. Sự bảo hộ về kinh tế và chính trị cho thẩm phán tòa án còn mong manh nên họ không dám làm những việc chứa đựng nhiều rủi ro.

Lý do còn lại đến từ chính những doanh nghiệp mắc nợ khi đã không nhận ra ích lợi từ thủ tục phá sản, vì vậy doanh nghiệp mắc nợ đã không chủ động nhờ tòa án thực hiện việc phá sản để đem lại lợi ích cho mình.

Thực tế đã có rất nhiều chủ doanh nghiệp loay hoay khổ sở với các khoản nợ mà không biết tìm cách giải thoát, sự lựa chọn thường là dừng hoạt động mà không thông báo đăng ký hoặc chấp nhận chịu đựng việc trả lãi cao kéo dài. Sự phổ biến giải thích pháp luật về bản chất của phá sản đã không có cho họ.

Không lo bị bỏ tù...

Trong phần này, tôi muốn chỉ ra những lợi ích của việc thực hiện thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp.

Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc ban hành năm 1966 được Việt Nam ký kết tham gia năm 1982, tại Điều 11 có nội dung: “Không ai bị bỏ tù chỉ vì lý do không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng”.

Theo nội dung của điều khoản này thì việc “không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng” sẽ không phải chịu chế tài hình sự. Từ nội dung này của Công ước luật pháp các quốc gia trong đó có Việt Nam đều quy định trách nhiệm trong thực thi hợp đồng thuộc về quan hệ pháp luật dân sự.

Theo quy định của pháp luật dân sự hiện nay, khi bị vi phạm hợp đồng doanh nghiệp có quyền khởi kiện ra tòa án để buộc bên vi phạm phải chịu phạt hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Sau khi bản án của tòa án có hiệu lực thì sẽ đến khâu thi hành.

Theo Luật thi hành án dân sự hiện nay, cơ quan thi hành án dân sự sẽ trả lại đơn yêu cầu thi hành án trong trường hợp người phải thi hành án không có tài sản để thi hành, hoặc người phải thi hành án có mức thu nhập thấp chỉ đủ đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho họ và gia đình họ.

Khi không có tài sản để thi hành, bên có nghĩa vụ sẽ được giải thoát khỏi trách nhiệm dân sự. Họ cũng không bị bỏ tù vì lý do không có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.

Tương tự như vậy, thủ tục phá sản là một cơ chế tư pháp cũng do tòa án tiến hành. Tòa án sẽ đánh giá mức độ tài sản hiện còn của doanh nghiệp và các khoản nghĩa vụ phải trả, một số khoản nghĩa vụ theo đó sẽ không được thanh toán nếu bên có nghĩa vụ không còn tài sản.

Theo quy định của luật phá sản hiện nay, chế tài nặng nhất mà một chủ doanh nghiệp phải gánh chịu sau khi phá sản là bị cấm thành lập doanh nghiệp hoặc tham gia quản lý doanh nghiệp trong thời hạn 3 năm.

Nhưng chế tài đó cũng chỉ áp dụng cho những người đã có hành vi bất hợp tác chống đối trong quá trình xử lý thủ tục phá sản. Còn lại hầu như không có vấn đề gì đối với một chủ doanh nghiệp phá sản.

Tựu chung lại, doanh nghiệp mắc nợ sẽ rất hưởng lợi khi hoàn tất thủ tục phá sản. Đó là cơ chế giải thoát cho các doanh nhân khỏi mối nghĩa vụ đe nặng. Thế nhưng lâu nay rất ít doanh nghiệp thực hiện cho xong thủ tục phá sản, lý do như trên đã chỉ ra không có ai nói cho cộng đồng doanh nghiệp biết được ích lợi từ việc đó.

Nay để tăng tính minh bạch, lành mạnh cho nền kinh tế, tôi cho rằng cần phải có biện pháp kiên quyết tháo gỡ các vướng mắc xung quanh thủ tục phá sản. Muốn có môi trường trong sạch, lành mạnh thì không thể để các zombie như vậy. Cho các doanh nghiệp gia nhập thị trường thì cũng phải cho họ thoái lui khỏi thị trường một cách minh bạch và công khai.

Luật sư Ngô Ngọc Trai

Trân trọng kinh mời quý vị độc giả gửi bài cho Diễn đàn “Vì Việt Nam hùng cường” theo địa chỉ email: [email protected]