Nhiều công trình nghiên cứu đã khẳng định việc phàn nàn, ở những chừng mực nhất định, sẽ mang lại những lợi ích tại nơi làm việc như giúp nhận diện và giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, không khó để nhận ra những hệ lụy tiêu cực của việc thường xuyên chỉ trích. Trong cộng đồng những người làm nghiên cứu với vô số áp lực bủa vây thì việc chỉ trích hay phàn nàn có lẽ không phải là chuyện hiếm.
Nhưng có phải lúc nào những phàn nàn của người làm nghiên cứu cũng thực sự có giá trị và làm thế nào để lời phàn nàn được đặt đúng chỗ và có sức thuyết phục?
Hãy cùng bàn về vấn đề qua hai ví dụ nhỏ dưới đây.
Trong một tin tuyển dụng nghiên cứu sinh (NCS) được đăng gần đây, một đơn vị nghiên cứu trong nước đưa tin sẽ trả một khoản lương nhỏ (dưới 250 USD/tháng) cho ứng viên kèm theo những yêu cầu như IETLTS 6.0, điểm trung bình 7.5. Bạn nghĩ gì khi đọc tin đó?
“Những người đủ điều kiện như vậy thì đã đi học ở nước ngoài rồi”.
“Với mức lương đó tôi thà chọn công việc lao động phổ thông”.
Đây có thể là vài trong số những suy nghĩ điển hình.
Thứ hai, một chủ đề khá nóng được thảo luận trong những ngày qua trong cộng đồng những người quan tâm đến giáo dục nước nhà có liên quan đến một đề án nhằm nâng cao chất lượng giảng viên. Trong bối cảnh năng lực giảng dạy, nghiên cứu trong nước còn rất nhiều hạn chế dù đã trải qua hàng chục năm với các đề án tiền nhiệm, bạn nghĩ sao khi lại có thêm một đề án mới?
“Một đề án với toàn COCC (con ông cháu cha)”.
“Thấy đi mà không thấy về”.
“Thất bại toàn tập”?
Nhưng mọi chuyện có thực sự như vậy?
Quay lại ví dụ đầu tiên, khoản tiền lương chưa đến 250 USD mỗi tháng cho một NCS sẽ là vô cùng khiêm tốn nếu so sánh với thù lao ở hầu hết các nước tiên tiến trên thế giới. Nhưng khi đặt ở bối cảnh trong nước với việc NCS không được trả lương là chuyện rất phổ biến thì một khoản hỗ trợ hàng tháng như vậy nên được xem là bước một tiến lớn và rất đáng trân trọng. Về các điều kiện đặt ra, có thể thấy những quy định ngày càng thắt chặt về chuẩn đầu ra với ngoại ngữ từ bậc Đại học đến Cao học đã không còn là chuyện hiếm ở nhiều trường.
Bạn có thể sẽ nói: “Nhưng những người đủ điều kiện như vậy sẽ chọn ra nước ngoài”.
Thực tế là rất nhiều người có đủ năng lực và điều kiện vẫn làm NCS trong nước bởi những ràng buộc về gia đình, công việc, thậm chí cả cơ duyên. Không đặt mình trong hoàn cảnh của họ, bạn sẽ không thể tự trả lời cho câu hỏi: “Tại sao họ làm vậy?” Trong thí nghiệm, việc xác đúng đối chứng là một trong những khâu nền tảng quyết định tính đúng đắn cho việc suy diễn kết quả. Tương tự trong trường hợp này, việc lấy bối cảnh các nước tiên tiến làm thước đo có thể khiến cho lăng kính nhìn nhận vấn đề của bạn bị bao phủ bởi một màu tiêu cực ngay từ quan sát đầu tiên.
Ở ví dụ thứ hai, hãy cùng thử tư duy một chút trước khi phàn nàn. Sau khi được lựa chọn, ứng viên cần chủ động liên hệ với cơ sở đào tạo ở nước ngoài để tiến hành nộp hồ sơ, đảm bảo các yêu cầu về đầu vào và đầu ra của chương trình, cũng như vượt qua các áp lực học tập và nghiên cứu khác. Do vậy, bất kể đối tượng được lựa chọn là ai thì vẫn cần phải thể hiện các phẩm chất và năng lực của bản thân để có thể hoàn thành chương trình đào tạo.
Với tư cách là người trong cuộc, bản thân người viết đã chứng kiến rất nhiều người đăng ký theo các đề án và việc họ được lựa chọn phần lớn dựa vào năng lực của chính họ. Bên cạnh đó, đề án tiền nhiệm chỉ tuyển được khoảng 30% trong số 10.000 chỉ tiêu, con số thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra. Hạn chế về ngoại ngữ là một trong những trở ngại lớn khiến nhiều ứng viên không đủ tiêu chuẩn. Do đó, có thể khẳng định những đề án như trên không phải chỉ tạo cơ hội cho một nhóm người có đặc quyền nhất định.
Bạn sẽ thắc mắc: “Tại sao các ứng viên không tìm đến những học bổng khác với chi trả cao hơn lại không kèm theo ràng buộc?”.
Đơn giản là mỗi con đường, mỗi lựa chọn đều chứa đựng những khó khăn và thuận lợi, và quyết định của mỗi người sẽ dựa trên sự cân đo của riêng họ. Đơn cử, nhờ đề án của Chính phủ, tác giả có thể đến đúng môi trường học tập mong muốn một cách nhanh chóng thay vì mất nhiều thời gian hơn cho việc chuẩn bị hồ sơ. Do vậy, đây là lựa chọn tối ưu nhất cho bản thân người viết trong thời điểm đó.
Và như thắc mắc của nhiều người: “Những đề án thế này có thực sự hiệu quả?”.
Trong những năm qua, khoa học trong nước đã có những bước tiến lớn mà không ai có thể phủ nhận. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thu Thủy và Trần Tú Uyên (Trường ĐH Ngoại thương) đã chỉ ra số lượng công bố quốc tế của Việt Nam từ năm 2009 đến năm 2018 tăng gần 5 lần, từ 1.764 lên 8.234 bài. Theo Nguyễn Minh Quân cùng các cộng sự, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam trong đó có địa chỉ tác giả liên hệ tại Việt Nam ở mức dưới 200 bài trong năm 2000. Sau 18 năm, con số này tăng lên trên 1.800 bài vào năm 2018. Các kết quả trên bao gồm đóng góp từ những người được đào tạo trong và ngoài nước và những người đi về từ đề án là một phần không nhỏ. Hoặc nếu vẫn nghi ngờ về những báo cáo hay con số, bạn có thể đến các trường Đại học, các trung tâm nghiên cứu để tận mắt chứng kiến những người đi về đã làm việc và vẫn đang thành công như thế nào. Không ít trong số đó hiện đang nắm giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan. Nói như vậy không có nghĩa là mặc định chấp nhận những hạn chế còn tồn tại như một điều hiển nhiên. Khác biệt nằm ở chỗ: ngoài những thứ đáng bị chỉ trích ra, bạn còn thấy gì khác nữa hay những gì có thể cải tiến? Qua đó, có thể thấy để những phàn nàn trở lên có giá trị thì điều đầu tiên bạn nên làm là tự phản biện có hiệu quả lại lập luận của chính mình. Từ đó, bạn sẽ rút ra được những gì thực sự nên bị chỉ trích hay những gì có thể sửa đổi.
Khi bạn sống hay làm việc ở bất cứ đâu, sẽ luôn có những thứ chướng tai gai mắt kế bên, những thứ mà với khả năng của mình, bạn sẽ vĩnh viễn không thể thay đổi.
Khi đó, bạn sẽ có thể chọn: phàn nàn rồi tiếp tục phàn nàn. Hoặc bạn có thể phàn nàn như thể đó là một nhu cầu chính đáng để sau đó tự nhủ: “It nhất phải có gì tích cực ở đây và mình có thể làm gì đó để khiến cái gì đó tốt hơn.”
Lựa chọn là ở bạn!
Dương Mạnh Cường - giảng viên Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, hiện đang là nghiên cứu sinh tại Đại học Missouri, Hoa Kỳ
Sau những đề án nghìn tỷ, Đề án 89 cử giảng viên học tiến sĩ có gì mới?
Trước Đề án 89, trong vòng 20 năm trở lại đây, Bộ GD-ĐT từng chủ trì thực hiện 2 đề án đào tạo nhân lực trình độ tiến sĩ và thạc sĩ có kinh phí nhiều nghìn tỉ đồng.
Cử 7.300 giảng viên học tiến sĩ: 'Quản' tiền thế nào nếu không trở về?
Phó Hiệu trưởng một trường đại học lớn nhận xét rằng việc yêu cầu các trường đóng vai trò chính cả trong việc bồi hoàn (nếu có) kinh phí đào tạo tiến sĩ cho giảng viên là khó, nhưng nếu Bộ GD-ĐT “ôm” thì cũng khó nốt.