Danh sách Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Ngân hàng thương mại Việt Nam uy tín năm 2021, tháng 7/2021 |
Danh sách Top 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần tư nhân uy tín năm 2021
Nguồn: Vietnam Report, Top 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần tư nhân uy tín năm 2021, tháng 7/2021 |
Ngành ngân hàng 6 tháng đầu năm 2021: Những điểm sáng
Năm 2020, cơn bão mang tên Covid-19 đổ bộ trên toàn cầu đã làm cho nền kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề, chuỗi cung ứng bị đứt gãy, sản xuất đình trệ, và nhu cầu tiêu dùng giảm sút. Đây cũng là năm mà thiên tai diễn biến bất thường khiến cho nền kinh tế càng thêm khó khăn. Trong bối cảnh đó, ngành Ngân hàng không chỉ làm tốt chức năng cung ứng, phân bổ vốn mà còn có một vai trò đặc biệt hơn – tiếp sức cho nền kinh tế, triển khai các giải pháp để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt qua thách thức bởi đại dịch và thiên tai. Dù chịu nhiều ảnh hưởng gián tiếp của đại dịch Covid-19, kết thúc năm 2020, lợi nhuận của các ngân hàng vẫn tăng trưởng khá, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng đạt 12,13%, cao hơn so với mức tăng trưởng của 2019, hệ thống ngân hàng được đánh giá an toàn và lành mạnh hơn, thể hiện khả năng chống chịu rủi ro tốt trước cú sốc bên ngoài và nhiều dấu ấn nổi bật khác.
Khi những dư âm của thiên tai, dịch bệnh từ năm 2020 vẫn còn tác động đến nền kinh tế, đến đầu năm 2021, Covid-19 quay trở lại mang theo những biến thể mới, càn quét với cường độ mạnh hơn trong quý II tại nhiều tỉnh thành kinh tế trọng điểm của cả nước. Cùng với khó khăn chung của nền kinh tế, ngành ngân hàng cũng gặp nhiều thách thức, nhưng vẫn có thể thấy những điểm sáng của ngành ngân hàng trong nửa đầu năm 2021.
Điểm sáng thứ nhất, kết quả kinh doanh tăng trưởng mạnh mẽ so với cùng kỳ. Sau một năm đầy biến động và thử thách, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ khởi sắc hơn trong năm 2021 với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Chính phủ đặt ra là 6,5% trong năm nay. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2021 tăng 5,64%. Ngân hàng, một ngành được coi là huyết mạch của nền kinh tế, cũng đang hưởng lợi từ sự phục hồi đó. Kết quả trong những tháng đầu năm giúp chúng ta có thể thấy, nhu cầu sử dụng các dịch vụ, sản phẩm của các ngân hàng tiếp tục xu hướng tăng mạnh. Báo cáo của Tổng cục Thống kê trong 6 tháng đầu năm 2021, tính đến thời điểm 21/6, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 5,47%, tăng trưởng gấp hai lần so với cùng kỳ năm 2020. Bất chấp tác động của đại dịch, lợi nhuận của ngành ngân hàng vẫn tăng trưởng cao, có hơn chục ngân hàng ghi nhận lợi nhuận nghìn tỷ, chất lượng tài sản, tỷ lệ nợ xấu vẫn được kiểm soát tốt. Theo dữ liệu của FiinGroup, tổng thu nhập hoạt động trong quý I/2021 tăng 28,4% so với cùng kỳ. Đầu tháng 7, một số ngân hàng công bố kết quả kinh doanh với sự bứt phá mạnh mẽ, dự báo sẽ có nhiều kỷ lục mới trong bức tranh lợi nhuận của ngành ngân hàng.
Những số liệu này cũng cho thấy gần như ngành ngân hàng đã bước được vào nền tăng trưởng mới với các yếu tố hỗ trợ như là lãi suất huy động ở mức thấp, trong khi lãi suất cho vay giảm chưa tương ứng, thêm vào đó nhiều ngân hàng còn huy động được lượng lớn trái phiếu kỳ hạn dài với lãi suất thấp, giúp cho biên lãi ròng của ngân hàng được cải thiện.
Điểm sáng thứ hai, sự ra đời của chính sách mới. Đó là sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của NHNN, các Bộ, ban ngành đối với sự phát triển tăng trưởng tín dụng thực chất của ngành ngân hàng và ban hành Thông tư 03/2021/TT-NHNN về việc cơ cấu thời hạn trả nợ, miễn lãi vay do ảnh hưởng dịch Covid-19. Các chuyên gia trong khảo sát của Vietnam Report đánh giá Thông tư 03 đối với các ngân hàng như “nắng hạn gặp mưa rào”, mang tính nhân văn đối với cả tổ chức tín dụng và bên đi vay. Nếu không có Thông tư 03, các ngân hàng sẽ phải trích lập rất mạnh mẽ các khoản nợ xấu trong năm nay nhưng với Thông tư này khoảng thời gian đã được giãn ra trong 3 năm. Việc trích lập dự phòng cụ thể tùy thuộc sự chịu ảnh hưởng từ chất lượng dự nợ cho vay của ngân hàng. Nhiều ngân hàng có dòng tiền ổn định đã chủ động trích lập dần trong từng quý để chuẩn bị “bộ đệm” lớn hơn cho dự phòng rủi ro có thể xảy ra.
Điểm sáng thứ ba, nhóm ngân hàng ghi nhận những câu chuyện về phát hành bán vốn, bán công ty con cho nước ngoài. Giữa bối cảnh dịch bệnh bùng phát, mà gần như khối ngoại rút ra khỏi thị trường chứng khoán (TTCK), bán ròng rất mạnh mẽ, các nhà đầu tư nước ngoài vẫn nhìn thấy được cơ hội trong các giao dịch tài sản của ngân hàng. Điển hình như trường hợp VPbank bán được 49% vốn của Fecredit cho tập đoàn của Nhật Bản, một kế hoạch khác trong tương lai như HDbank cũng bán mảng tín dụng cho ngân hàng nước ngoài.
Điểm sáng thứ tư, tài chính phi tín dụng tiếp tục được gia tăng. Trong bối cảnh dịch bệnh, 6 tháng đầu năm 2021, nhóm ngân hàng tiếp tục tăng mạnh quy mô và tỷ trọng thu nhập phí dịch vụ, thu nhập ngoài lãi như bảo lãnh khách hàng, bão lãnh thư tín dụng (LC), thanh toán không dùng tiền mặt, liên kết với công ty bảo hiểm để bán chéo sản phẩm (Bancassurance), chứng khoán v.v. Điều này giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) phát triển toàn diện hơn, không còn lệ thuộc vào chỉ tiêu tín dụng, đồng thời giảm thiểu rủi ro và cải thiện cơ cấu nguồn thu theo hướng bền vững.
Triển vọng tăng trưởng của ngành ngân hàng năm 2021: Khả quan nhưng không quá tích cực trước những lo ngại về diễn biến khó lường của đại dịch
Kết quả khảo sát chuyên gia và ngân hàng của Vietnam Report trên thang Li-kert 5 điểm đã chỉ ra top 3 yếu tố vĩ mô ảnh hưởng nhất đến kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng trong năm 2021, đó là: Sự bùng phát đại dịch trở lại trên diện rộng (4,73/5); Sự phục hồi của kinh tế vĩ mô (4,55/5); Chính sách, quy định của Nhà nước lĩnh vực Ngân hàng (4,36/5). Trên khía cạnh vi mô, xét trong ngân hàng, 3 yếu tố ảnh hưởng nhất: Khả năng áp dụng công nghệ số trong các dịch vụ ngân hàng (4,73/5); Hệ thống quản lý rủi ro và công tác kiểm soát nội bộ (4,64/5); Chất lượng sản phẩm, dịch vụ (4,55/5).
Với những yếu tố thuận lợi đến từ nền kinh tế toàn cầu đang phục hồi, sự hỗ trợ về mặt chính sách, lãi suất thấp tiếp tục được duy trì, cùng sự linh hoạt trong điều hành của ngân hàng khi chuyển hướng mạnh mẽ trong cơ cấu hoạt động và tăng cường đầu tư công nghệ số, có 52,94% chuyên gia và ngân hàng trong khảo sát của Vietnam Report nhận định ngành ngân hàng trong năm 2021 sẽ tăng trưởng khả quan, tốt hơn một chút. Theo đó, tăng trưởng tín dụng cả năm có thể tương đương hoặc cao hơn mức tăng trưởng 12,13% của năm ngoái một chút. Mặc dù kết quả kinh doanh của nhóm ngành ngân hàng trong những tháng đầu năm có sự vượt trội hơn so với nhiều ngành khác, nhưng các chuyên gia đánh giá tăng trưởng cả năm chỉ đạt ở mức khả quan, không quá tích cực do tăng trưởng tín dụng của nhóm ngân hàng thiên về nhiều yếu tố chưa thực chất, còn tiềm ẩn những rủi ro, thách thức, nhất là khi dịch bệnh đang diễn biến khó lường, chưa được kiểm soát.
Hình 1: Triển vọng tăng trưởng của ngành ngân hàng năm 2021
Nguồn: Vietnam Report, khảo sát các chuyên gia và ngân hàng TMCP, tháng 6 năm 2021 |
Top 5 thách thức ngành ngân hàng
Cơ hội luôn đi kèm cùng thách thức. Đợt bùng phát dịch thứ tư trong những tháng vừa qua, đã nhắc nhở chúng ta về những thách thức rất lớn vẫn còn hiện hữu trong năm nay. Kết quả khảo sát chuyên gia và ngân hàng của Vietnam Report đã chỉ ra Top 5 thách thức đối với ngành ngân hàng trong năm 2021.
Hình 2: Top 5 thách thức của ngành ngân hàng trong năm 2021
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát chuyên gia và ngân hàng TMCP năm 2021, tháng 6/2021 |
Diễn biến phức tạp của đại dịch và sự gia tăng nợ xấu. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 từ năm 2020 đã khiến nhiều doanh nghiệp bị thiệt hại nặng nề, thậm chí rơi vào tình trạng phá sản. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho biết trong 6 tháng đầu năm nay có 70,2 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể. Trong những tháng đầu năm, nợ xấu của toàn hệ thống không quá cao, chưa đến mức đáng lo ngại nhưng nó luôn hiên hữu và tiềm ẩn và có xu hướng gia tăng.
Đợt bùng phát lần thứ tư của dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp tại nhiều tỉnh thành, trên cả nước mỗi ngày có hàng nghìn ca mắc mới, TP.HCM phải thực hiện giãn cách toàn thành phố theo Chỉ thị 16 tạo thêm những lo ngại về sự phục hồi kinh tế. Nếu tốc độ tiêm chủng của Việt Nam không đáp ứng dịch bệnh chưa được kiểm soát thì đến năm 2022 nền kinh tế sẽ bị chững lại, các doanh nghiệp không hồi phục được như mô hình trước dịch và khả năng trả nợ giảm. Khi đó, nợ xấu sẽ gối đầu nhau và tăng dần lên, như vậy doanh nghiệp và nhiều khách hàng cá nhân không tiếp cận được vốn, cùng với đó là nhu cầu tín dụng giảm. Đây là một thách thức rất lớn mà các ngân hàng cần phải theo dõi chặt chẽ và chuẩn bị cho những kịch bản xấu nhất có thể xảy ra.
Tuân thủ các chuẩn mực quốc tế ở cấp độ cao hơn. Theo xu thế phát triển và hội nhập, nhóm ngân hàng cần thực hiện các chuẩn mực quốc tế cao hơn như Basel II, Basel III, v.v nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro, khẳng định vị thế, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và thế giới, và tạo niềm tin cho khách hàng. Ngân hàng là nhóm ngành có hệ thống tài chính rất hoàn thiện với nhiều chỉ tiêu đánh giá. Trong đó, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) vẫn đang là vướng mắc lớn để các ngân hàng đạt được yêu cầu của các chuẩn mực này. Nếu vốn chủ sở hữu không tăng tương xứng với cho khoản vay và đầu tư thì hệ số CAR sẽ giảm, cho nên việc tăng vốn và đảm bảo tỷ lệ CAR theo các chuẩn mực là một áp lực rất lớn đối với các ngân hàng.
Thống kê sơ bộ trong năm nay có khoảng 16 ngân niêm yết và đăng ký giao dịch lên kế hoạch tăng vốn điều lệ. Nhóm ngân hàng tăng vốn sẽ giải quyết được nhiều vấn đề như cải thiện được hiệu quả hoạt động liên quan đến chỉ số như là tỷ lệ an toàn vốn, NIM và tăng khả năng cho vay. Tuy nhiên, việc tăng vốn cũng gặp nhiều khó khăn, phụ thuộc vào sự chấp thuận của NHNN cùng nhiều yếu tố khác. Ngân hàng tăng vốn bằng thưởng cổ phiếu khá dễ dàng, nhưng tăng vốn bằng cách phát hành quyền mua sẽ chịu tác động bởi chu kỳ cổ phiếu. Nếu TTCK thuận lợi, tăng điểm, các ngân hàng sẽ không gặp khó khăn cho việc phát hành tăng vốn này, nhưng khi thị trường bước vào pha điều chỉnh, tâm lý nhà đầu tư yếu sẽ rất khó xuống tiền mua thêm cổ phiếu phát hành. Đây là một thách thức nhưng là điều mà các ngân hàng phải làm khi TTCK đang diễn biến thuận lợi.
Sự cạnh tranh của ngân hàng trong các dự án chuyển đổi số và đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ. Trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển của công nghệ, áp lực cạnh tranh của ngành ngân hàng ngày càng khốc liệt. Không chỉ là cuộc cạnh tranh của ngân hàng với nhau, giữa các ngân hàng với các công ty tài chính mà còn là giữa ngân hàng với fintech và bigtech, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ thanh toán và cho vay nhỏ lẻ, tiêu dùng. Khảo sát trong tháng 6 năm 2021 của Vietnam Report đã chỉ ra top 3 lợi thế cạnh tranh được các ngân hàng lựa chọn nhiều nhất, đó là: Ứng dụng công nghệ (90,91% phản hồi); Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ (54,55%); Mạng lưới và kênh phân phối (36,36%). Có thể thấy đẩy mạnh các ứng dụng công nghệ và đa dạng hóa sản phẩm là hai chiến lược mũi nhọn được nhiều ngân hàng lựa chọn để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Ngân hàng nào tiên phong đi đầu, làm phong phú sự trải nghiệm của khách hàng hoàn hảo nhất, sẽ để lại ấn tượng tốt nhất. Điều này đòi hỏi mỗi ngân hàng phải thay đổi nhanh hơn, quyết liệt hơn để tạo dựng được hình ảnh và vị thế của mình.
Những nút thắt về chính sách với các mô hình kinh doanh mới. Cùng với sự phát triển của công nghệ, nhiều mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực tài chính ra đời như mô hình ngân hàng số 100%, tiền kỹ thuật số, cho vay ngang hàng v.v và đang cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng truyền thống. Tuy nhiên, tại Việt Nam nhiều quy định liên quan đến thanh toán không dùng tiền mặt, cho vay ngang hàng, dự thảo thay thế Nghị định 101 về thanh toán không dùng tiền mặt v.v. vẫn đang ở dạng dự thảo, chưa được chính thức ban hành. Các quy định pháp lý trong nước lại chưa theo kịp với yêu cầu, khiến các NHTM e dè trong việc áp dụng công nghệ, dịch vụ mới ngoài khuôn khổ cho phép. Những nút thắt về chính sách này cần các cơ quan quản lý và nghiên cứu cần có phương án tiếp cận kịp thời.
Rủi ro về an ninh mạng, thông tin dữ liệu an toàn. Ngân hàng đóng vai trò là trụ cột của nền kinh tế và luôn dẫn đầu trong việc ứng dụng hệ thống công nghệ thông tin, hầu hết các giao dịch và hoạt động tài chính được xử lý trực tuyến nên có một tỷ lệ cao số vụ tội phạm an ninh mạng liên quan đến các ngân hàng. Thêm vào đó, đại dịch Covid-19 bùng phát cũng khiến cho các ngân hàng phải đối mặt với số lượng các hoạt động gian lận tăng lên đáng kể. Ngoài ra, ngân hàng cũng gặp phải những rủi ro về đạo đức liên quan đến khách hàng, và nhân viên ngân hàng. Với loại hình ngân hàng mở được giới thiệu gần đây, khách hàng ngày càng quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo mật, quyền riêng tư, gian lận trong lĩnh vực ngân hàng và fintech. Ngân hàng mở cũng đã làm tăng tác động của các vụ vi phạm và sự cố an ninh mạng. Tính bảo mật cao chính là chìa khóa mang lại niềm tin cho khách hàng và các đối tác trong kinh doanh. Kết quả khảo của Vietnam Report với khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng đã chỉ ra top 3 yếu tố khi lựa chọn một ngân hàng: trong đứng đầu là ngân hàng có Giao dịch an toàn, bảo mật cao (67,65%); Thủ tục đơn giản, nhanh chóng (64,71%); Phí dịch vụ (50%).
Hình 3: Top 3 lý do lựa chọn sử dụng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng, tháng 6 năm 2021 |
Top 4 xu hướng của ngành ngân hàng
Năm 2021 sẽ là khởi đầu cho một chu kỳ kinh tế mới với những xu thế mới trong phát triển kinh tế, xã hội và ngành ngân hàng cũng nằm trong vòng quay đó. Các ngân hàng cần nắm bắt xu hướng và lập kế hoạch phù hợp để giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Kết quả khảo sát các chuyên và ngân hàng của Vietnam Report đã chỉ ra 4 xu hướng chủ đạo với ngành ngân hàng trong thời gian tới.
Hình 4: Top 4 xu hướng của ngành ngân hàng
Nguồn: Vietnam Report |
Xu hướng phát triển ngân hàng xanh
Đi cùng với sự phát triển kinh tế, đô thị hóa cũng là nguyên nhân khiến tình trạng ô nhiễm môi trường gia tăng, thiên tai, dịch bệnh ngày càng nghiêm trọng. Trước bối cảnh đó, nhiều quốc gia trên thế giới bao gồm Việt Nam đã lựa chọn chiến lược tăng trưởng xanh. Với vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế, ngành ngân hàng góp phần quan trọng trong “xanh hóa” nền kinh tế, ưu tiên cho vay các dự án thuộc lĩnh vực kinh tế xanh như: Năng lượng tái tạo; Dịch vụ môi trường; Nước; Bất động sản xanh; Giao thông xanh; Thực phẩm; Ứng phó với biến đổi khí hậu; Năng lượng hiệu quả. Trên phương diện trực tiếp, ngân hàng xanh thực hiện tiết kiệm năng lượng, hạn chế rác thải, triển khai dịch vụ tự động hóa… góp phần mang lại lợi ích cho xã hội, khách hàng và các ngân hàng.
Phát triển ngân hàng xanh là xu thế tất yếu. Các cam kết về tài chính bền vững và ESG (môi trường, xã hội và quản trị) cũng đang nhanh chóng bắt đầu trở thành một phần không thể thiếu của lĩnh vực ngân hàng trên toàn cầu. Mặc dù, Chính phủ đã đưa ra Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh từ năm 2012, nhưng cho đến nay tỷ trọng tín dụng xanh trong cơ cấu hoạt động cho vay của ngân hàng còn thấp, chủ yếu ở các ngân hàng có quy mô lớn do những lo ngại về rủi ro. Đứng trước xu thế phát triển của ngân hàng xanh, ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, bản thân mỗi ngân hàng cần tham khảo các mô hình ngân hàng xanh trên thế giới, chủ động, quyết liệt hơn trong việc thực hiện hoạt động tín dụng xanh.
Xu hướng phát triển ngân hàng số mạnh mẽ hơn
Dịch bệnh xuất hiện khiến tâm lý, hành vi tiêu dùng và đầu tư của khách hàng thay đổi, nhưng cũng chính là chất xúc tác thúc đẩy cả các ngân hàng và khách hàng tiến tới sử dụng các dịch vụ ngân hàng số nhiều hơn, thanh toán không dùng tiền mặt nhiều hơn. Đây cũng là cơ hội để ngân hàng cơ cấu lại nguồn thu, dịch chuyển dần từ thu dịch vụ tín dụng sang thu dịch vụ thông qua phát triển cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích, đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân. Theo Ngân hàng Nhà nước, tới cuối năm 2020, số lượng và giá trị giao dịch thanh toán qua di động tăng tới hơn 1.111,2% và 4.049,1% so với cùng kỳ năm 2016. Trong cuộc khảo sát gần đây của Vietnam Report với 64,8% người được hỏi thuộc nhóm tuổi từ 18-34 có sử dụng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng cho thấy trước đại dịch Covid-19, hai hình thức thanh toán được ưa chuộng là tiền mặt và chuyển khoản ngân hàng, nhưng sau đại dịch thanh toán bằng tiền mặt giảm xuống, loại hình ví điện tử và chuyển khoản tăng lên. Khi được hỏi về mong muốn cho một ngân hàng tương lai thế nào, có 32,4% người được hỏi muốn ngân hàng có nhiều quy trình kỹ thuật số hơn từ ngân hàng của họ trong tương lai; 39,2% người muốn sử dụng dịch vụ ngân hàng tự động và 28,4% người muốn giao dịch ngân hàng trực tiếp với các biện pháp an toàn.
Nhiều chuyên gia và doanh nghiệp trong khảo sát của Vietnam Report cho rằng năm 2021 sẽ là năm bùng nổ về chuyển đổi số, hoạt động ngành ngân hàng năm nay và trong cả những năm tới sẽ là sự đan xen giữa các hoạt động ngân hàng truyền thống và sự nổi lên của ngân hàng số. Cuộc đua về chuyển đổi số không chỉ diễn ra ở khối các ngân hàng TMCP tư nhân mà còn cả trong khối ngân hàng có vốn Nhà nước. Một số ngân hàng đi nhanh trong phát triển công nghệ, đã bước vào giai đoạn thứ hai của chuyển đổi số là sáng tạo số.
Kết quả khảo sát của Vietnam Report với các ngân hàng về tình hình triển khai chuyển đổi số ghi nhận 58,33% ngân hàng đang triển khai trên quy mô, 16,67% ngân hàng đã triển khai một phần và có 25% ngân hàng đang ở giai đoạn củng cố hệ thống vận hành. Bên cạnh đó, khảo sát cũng chỉ ra nền tảng dữ liệu di động, dữ liệu lớn (Big data), ngân hàng mở, tự động hóa quy trình bằng Robot, công cụ trí tuệ nhân tạo (AI), chatbot v.v được nhiều ngân hàng áp dụng ở mức cao và rất cao để phân tích hành vi, nhu cầu khách hàng. Ứng dụng blockchain triển khai còn ở mức hạn chế.
Hình 5: Đánh giá tiến trình chuyển đổi số hiện nay của ngân hàng
Nguồn: Vietnam Report, khảo sát các ngân hàng TMCP, tháng 6 năm 2021 |
Trong thời gian tới, các ngân hàng sẽ áp dụng các công nghệ mới, cập nhật hơn, với việc gia tăng ứng dụng trí tuệ nhân tạo, máy học (Machine learning), ứng dụng blockchain, làm chủ dữ liệu và tận dụng sức mạnh của Big data càng ngày càng nhiều hơn, đi kèm với việc tăng cường sử dụng robot tự động hoá để gia tăng năng suất, hiệu quả làm việc trong nội bộ ngân hàng và trải nghiệm khách hàng.
Xu hướng các ngân hàng tập trung đầu tư mạnh vào an ninh mạng
Như đã phân tích ở trên, rủi ro an ninh mạng là một thách thức đối với các ngân hàng. Để bảo vệ tất cả dữ liệu nhạy cảm và đảm bảo mức độ bảo mật cao nhất cho thông tin tài chính của khách hàng, tránh những tổn thất tài chính và tổn hại danh tiếng, an ninh mạng sẽ là ưu tiên hàng đầu đối với tất cả các ngân hàng trong thời gian tới. Các tổ chức tài chính sẽ chú trọng đầu tư mạnh hơn nữa vào việc gia cố an toàn toàn thông tin dữ liệu thông qua các biện pháp bảo mật mới và đa dạng hóa cách thức lưu trữ dữ liệu tài chính của khách hàng.
Xu hướng chuyển đổi, phát triển mạnh hơn ngân hàng đại lý
Việt Nam là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất, dân số trẻ gắn với thu nhập của người dân đang tăng lên, tuy nhiên còn nhiều người dân chưa tiếp cận được với các dịch vụ tài chính, nhất là tại vùng các vùng nông thôn, miền núi. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới (World Bank) mới có khoảng trên 40% người dân có tài khoản ngân hàng. Đây là những yếu tố tạo dư địa tăng trưởng cho ngành ngân hàng và đồng thời cũng đặt ra bài toán buộc các ngân hàng phải tìm ra giải pháp để khai thác thế mạnh và nhân rộng mô hình hoạt động tại thị trường nông thôn, miền núi và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính với người dân. Trong thời đại công nghệ cùng xu hướng ngân hàng không chi nhánh, mô hình đại lý ngân hàng sẽ ngày càng phát triển trên thế giới. Ngân hàng đại lý sẽ cung cấp dịch vụ tài chính như thanh toán hóa đơn, rút tiền, chuyển tiền, gửi tiền tiết kiệm v.v thông qua hệ thống bưu điện, cửa hàng tiện ích, trạm xăng dầu, mạng lưới của doanh nghiệp có quan hệ v.v. Với nhiều yếu tố thuận lợi cùng sự khuyến khích của Nhà nước, có lẽ đã đến thời điểm thích hợp để các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động ngân hàng đại lý.
Top 6 giải pháp của ngành ngân hàng trong thời kỳ hậu Covid-19
Trước bối cảnh kinh tế - xã hội - môi trường còn nhiều rủi ro, thách thức, với vai trò đồng hành cùng Chính phủ và các doanh nghiệp, trong năm 2021 các ngân hàng sẽ tiếp tục thực hiện mục tiêu vừa đảm bảo kết quả kinh doanh, các chỉ số tài chính theo chiến lược và cam kết với nhà đầu tư, vừa thực hiện chính sách hỗ trợ khách hàng trong giai đoạn khó khăn. Kết quả khảo sát của Vietnam Report chỉ ra Top 6 chiến lược ưu tiên hàng đầu của các ngân hàng trong thời kỳ hậu Covid-19: (i) Tiếp tục đẩy mạnh tiến trình chuyển đổi số ngân hàng, thiết kế các biện pháp khuyến khích khách hàng sử dụng nhiều hơn sản phẩm số; (ii) Đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường hoạt động; (iii) Tăng vốn điều lệ; (iv) Chuyển dịch cơ cấu hoạt động của ngân hàng; (v) Tăng cường công tác quản trị rủi ro; (vi) Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực thích ứng với chuyển đổi số.
Hình 6: Top 6 chiến lược ưu tiên của ngành ngân hàng trong năm 2021
Nguồn: Vietnam Report, Khảo sát ngân hàng TMCP năm 2021, tháng 6/2021 |
Chuyển dịch cơ cấu hoạt động của ngân hàng. Năm 2021, đại dịch Covid-19 còn ảnh hưởng lớn hơn trong năm 2020, điều này thấy rất rõ qua đợt bùng phát dịch lần thứ tư. Hòn tuyết này càng lăn càng to và nhóm ngân hàng sẽ chịu áp lực chung buộc phải giảm lãi suất cho vay về một mức nào đó, và như vậy sẽ làm giảm biên lãi ròng (NIM). Nhóm ngân hàng quốc doanh sẽ chịu áp lực cao hơn từ NHNN. Để giữ vững kết quả kinh doanh, các ngân hàng sẽ thực hiện chuyển dịch cơ cấu hoạt động của ngân hàng thông qua gia tăng tỷ trọng thu nhập phi tín dụng, cơ cấu lại danh mục nguồn vốn theo hướng tiết giảm chi phí như tăng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA). Năm 2020 chiến lược tăng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn là một cuộc đua giữa các ngân hàng Teckcombank, MBbank, Vietcombank. Nhưng năm 2021 sẽ có cuộc đua mạnh mẽ hơn khi nhiều ngân hàng giảm các phí chuyển tiền giữa các ngân hàng với nhau để tăng tiền gửi không kỳ hạn. Khi tỷ lệ này cao sẽ giảm chi phí vốn của ngân hàng và góp phần làm NIM tăng cao hơn. Đây là giải pháp phù hợp với tình hình hiện tại, tăng tỷ lệ tiền gửi giúp thanh khoản ngân hàng tốt hơn và đồng thời buộc các ngân hàng phải đưa ra các giải pháp để tăng chất lượng, cũng như giảm phí dịch vụ.
Tăng vốn điều lệ. Năm nay gần như là một cuộc thi đua tăng vốn của nhóm ngân hàng với vốn đăng ký tăng thêm khoảng 82.000 tỷ. Điều này sẽ giúp cho ngành ngân hàng có một nền vốn mới tốt hơn. Bên cạnh đó, việc tăng vốn cũng thúc đẩy cho tăng trưởng tín dụng và thị trường chứng khoán.
Đổi mới, đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng thị trường hoạt động. Môt số ngân hàng trong khảo sát của Vietnam Report triển khai chiến lược đổi mới, mở rộng thị trường thông qua việc tiếp tục khai thác thế mạnh và nhân rộng mô hình hoạt động tại thị trường nông thôn, nông nghiệp, đẩy mạnh tài trợ chuỗi và liên kết với các đối tác nền tảng, khai thác tốt khách hàng hệ sinh thái.
Tăng cường công tác quản trị rủi ro. Các ngân hàng đã có những bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008–2009 về quản lý vốn, thanh khoản và ứng phó với khủng hoảng nên đã có sự chuẩn bị tốt hơn hầu hết các tổ chức khác. Nhưng trong bối cảnh kinh tế mới, các ngân hàng không chỉ tăng cường công tác quản trị rủi ro tài chính mà còn tích hợp cùng quản trị an ninh mạng, quản lý rủi ro mô trường, xã hội trong thẩm định dự án.
Đánh giá uy tín truyền thông
Kết quả phân tích Mediacoding của Vietnam Report chỉ ra những chủ đề xuất hiện nhiều nhất trên truyền thông với ngành ngân hàng: Tài chính/ Kết quả kinh doanh; Cổ phiếu; Sản phẩm; Hình ảnh/ Pr/ Scandals; Giá (lãi suất, phí dịch vụ). Bức tranh về ngành ngân hàng trong năm vừa qua đã được phản ánh rõ nét qua lăng kính truyền thông. Là trụ cột của nền kinh tế cùng nhiều sự kiện như việc ngân hàng chuyển sàn, tăng vốn, nhóm ngân hàng trong giai đoạn nghiên cứu có lượng tin về chủ đề Cổ phiếu tăng cao hơn so với năm trước, từ vị trí số 5 đã vươn lên vị trí số 2 về chủ đề xuất hiện nhiều nhất trên truyền thông. So với các giai đoạn nghiên cứu trước, lần đầu tiên nhóm Nghiên cứu và Phát triển xuất hiện trong Top 10 chủ đề nổi bật, điều này cho thấy sức sáng tạo, sự nỗ lực và linh hoạt của ngành ngân hàng để vượt qua những khó khăn trong đại dịch và đưa đến cho khách hàng những trải nghiệm tốt nhất. Mặc dù chủ đề này có tỷ lệ xuất hiện tăng so với năm trước, tuy nhiên so với mức chuẩn ở các ngân hàng thương mại Châu Á là 5% thì chỉ có 11,43% NHTM của Việt Nam đáp ứng.
Hình 7: Top 10 chủ đề xuất hiện nhiều nhất trên truyền thông
Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media Coding ngành Ngân hàng từ tháng 6/2020 đến tháng 5/2021 |
Xét về tin tích cực – tiêu cực theo chủ đề: Top 10 chủ đề được phân tích đều có sự gia tăng về tỷ lệ tin tích cực, phản ánh bức tranh tươi sáng của ngành ngân hàng trong giai đoạn vừa qua. Hầu hết các chủ đề đều có giảm lượng tin tiêu cực, ngoại trừ chủ đề Nhân sự, Hình ảnh/ Pr/ Scandals tăng cao hơn so với giai đoạn nghiên cứu trước đó với những tin vi phạm của một số cán bộ trong tuân thủ các quy định của ngành ngân hàng.
Xét về độ bao phủ bao phủ trên truyền thông, các ngân hàng Vietcombank, BIDV, HDbank, Vietinbank, Sacombank, VPBank là những ngân hàng dẫn đầu về số lượng tin trên các trang báo có ảnh hưởng.
Hình 8: Top những ngân hàng xuất hiện nhiều trên truyền thông
Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media Coding ngành Ngân hàng từ tháng 6/2020 đến tháng 5/2021 |
Độ đa dạng hình ảnh trên truyền thông: Có 88,57% ngân hàng đạt 10/24 chủ đề bao phủ, 37,14% ngân hàng có trên 20 chủ đề, trong đó Techcombank là ngân hàng có độ đa dạng chủ đề cao nhất với 23/24 nhóm.
Về chất lượng thông tin, một doanh nghiệp được đánh giá là "an toàn" khi đạt tỷ lệ chênh lệch thông tin tích cực và tiêu cực so với tổng lượng thông tin được mã hóa ở mức 10%, tuy nhiên ngưỡng "tốt nhất" là trên 20%. Trong số các NHTM nghiên cứu có 85,71% ngân hàng đạt được mức trên 10%, và 74,29% doanh nghiệp đạt ngưỡng trên 20%.
Hình 9: Tỷ lệ tin tích cực – tiêu cực theo tháng
Nguồn: Vietnam Report, Dữ liệu Media Coding ngành Ngân hàng từ tháng 6/2019 đến tháng 5/2021 |
Tỷ lệ thông tin tích cực, tiêu cực theo tháng: Xét theo giai đoạn từ tháng 6/2019 đến tháng đến tháng 5/2021, tỷ lệ tin tích cực có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ tin tiêu cực được kiểm soát dưới 10%, chỉ trừ tháng 7/2020, nhưng đã có sự kiểm soát tốt hơn những tháng sau đó và đang có xu thế đi vào ổn định.
Năm 2021 đánh dấu mốc 70 năm hình thành và phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam, trong đó nửa chặng đường là 35 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế đang có nhiều thay đổi, ngành ngân hàng vẫn gặp nhiều vướng mắc cần tiếp tục hỗ trợ tích cực từ phía Chính phủ và NHNN bên cạnh việc điều hành chính sách tiền tệ phù hợp, linh hoạt với diễn biến thị trường. Các chuyên gia và ngân hàng trong khảo sát của Vietnam Report đã chỉ ra 4 nhóm giải pháp trọng tâm, bao gồm:
(i) Đồng hành và hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong quá trình đã và đang hỗ trợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 trong quá trình cấp vốn, cần phải nhanh hơn, quyết liệt hơn (88,89%).
(ii) Hoàn thiện thể chế pháp luật với các mô hình kinh doanh mới (83,33%).
(iii) Hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống thanh toán, hệ thống dữ liệu vừa là đảm bảo tối đa cho xu thế chuyển đổi số vừa là đảm bảo cho hệ thống thanh toán an toàn, tiên tiến (77,78%). Trong khảo sát của Vietnam Report vào tháng 6/2021, có 75% ngân hàng nhận định hệ thống dữ liệu quốc gia chưa được hoàn thiện là một trong những thách thức lớn nhất của quá trình chuyển đổi số và cần sự hỗ trợ của Chính phủ để đẩy nhanh hơn tiến trình số hóa.
(iv) Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng tăng vốn, đảm bảo tiêu chuẩn Basel II (66,67%).
Vietnam Report