Theo thống kê từ Dự án “Thúc đẩy kinh doanh có trách nhiệm với môi trường cho hai ngành càphê và rau quả ở Việt Nam,” do VIRI phối hợp Hiệp hội Rau quả Việt Nam (Vinafruit), cả nước hiện có khoảng 145 cơ sở chế biến rau quả quy mô công nghiệp với tổng công suất thiết kế 800.000 tấn/năm và hàng nghìn cơ sở quy mô nhỏ. Dự kiến, xuất khẩu rau quả Việt Nam năm 2021 tăng khoảng 5-10% so với năm ngoái, đạt khoảng 3,42-3,58 tỷ USD.
Đồi chè ở Thái Nguyên |
Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề về canh tác ảnh hưởng đến tính bền vững trong sản xuất rau quả. Đáng chú ý nhất là việc sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, hiện vẫn là xu hướng thường thấy trên đồng ruộng Việt Nam. Theo các nghiên cứu, hiện có tới 260 sản phẩm thuốc bảo vệ thực vật đối với rau quả đang lưu hành trên thị trường như thuốc diệt cỏ, trừ sâu, trừ nấm, vi khuẩn, thuốc điều hòa sinh trưởng, phát triển…
Thực tế, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tràn lan, thiếu kiểm soát ở nhiều địa phương đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các loài thiên địch, gây ô nhiễm đất, nguồn nước, hình thành dịch bệnh có hại với khả năng kháng thuốc bảo vệ thực vật.
Quá trình chế biến rau quả tạo ra lượng thứ liệu, phế liệu chiếm tỷ lệ rất cao so với khối lượng nguyên liệu đưa vào sử dụng. Đơn cử như phế liệu sau chế biến của dứa lên tới 40-50%, xoài từ 30-50%, chuối khoảng 20%... Nếu không được xử lý đúng cách mà chỉ đơn thuần thải ra môi trường, đây sẽ trở thành nguồn thức ăn hấp dẫn đối với động vật, côn trùng gây truyền nhiễm bệnh tật.
Cùng đó, các hoạt động sản xuất rau quả còn có tác động nhất định đến hệ sinh thái như chuyển đổi diện tích đất có rừng để trồng cây ăn quả gây ảnh hưởng đến cấu trúc, cảnh quan các khu bảo tồn thiên nhiên; khai thác đất ngập nước trồng cây ăn quả làm giảm tính đa dạng, ảnh hưởng cấu trúc, chức năng đất ngập nước các khu ven biển. Đặc biệt, việc xây dựng nhà màng, nhà kính ở mọi địa hình đang phá vỡ cấu trúc không gian cây xanh, gia tăng xói mòn đất. Nhiệt độ khu vực chung quanh nhà kính, nhà lưới cùng bị tăng thường xuyên, bất thường. Mưa ở những nơi có nhiều nhà kính, nhà lưới thường không thể thẩm thấu tự nhiên, gây ngập lụt cục bộ.
Thực tế, việc sản xuất, kinh doanh có trách nhiệm với môi trường trong lĩnh vực nông nghiệp nói chung và ngành càphê, rau quả nói riêng đã trở thành một trong những cam kết của Việt Nam với quốc tế thông qua nhiều hiệp định thương mại, đồng thời là yêu cầu của các đối tác trên khắp thế giới.
Theo kết quả khảo sát của Dự án “Thúc đẩy kinh doanh có trách nhiệm với môi trường cho hai ngành càphê và rau quả ở Việt Nam,” châu Âu- thị trường chiếm tới hơn 40% lượng càphê xuất khẩu của Việt Nam- luôn khuyến khích và sẵn sàng “cộng điểm” cho quy trình sản xuất "có trách nhiệm," thân thiện với môi trường.
Trong khi đó, người tiêu dùng tại Hoa Kỳ - thị trường nhập khẩu càphê lớn thứ hai của Việt Nam - đòi hỏi doanh nghiệp Việt Nam cam kết thực hiện nghiêm nhiều tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường. Tương tự, Nga và Australia cũng đặt ra nhiều quy định liên quan đến môi trường khắt khe đối với càphê nhập khẩu.
Đối với mặt hàng rau quả, những thông tin từ Dự án “Thúc đẩy kinh doanh có trách nhiệm với môi trường cho hai ngành càphê và rau quả ở Việt Nam” cho thấy: nông sản nhập khẩu vào thị trường châu Âu buộc phải thỏa mãn các quy định về giới hạn tồn dư tối đa thuốc trừ sâu (MRLs). Trong khi đó, thị trường Hoa Kỳ cũng đòi hỏi chất lượng rau quả nhập khẩu từ các nước (trong đó có Việt Nam) phải vượt qua những tiêu chuẩn được đưa ra bởi Chương trình Bảo vệ thực vật và kiểm dịch (PPQ) hay Đạo luật Bảo vệ thực vật (PPA).
Nhằm đáp ứng những yêu cầu của các quốc gia nhập khẩu cà phê và rau quả, nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đã tích cực ứng dụng công nghệ vào sản xuất và chế biến nhằm thiết thực bảo vệ môi trường. Tiêu biểu như Hợp tác xã Bình Minh (huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk) đã sử dụng công nghệ nhiệt phân để đun nóng phế phẩm nông nghiệp.
Công nghệ này thay thế hoàn toàn cho những cách đốt nguyên liệu truyền thống, vừa giúp giảm thiểu khói bụi, khí thải độc hại ra môi trường, vừa tạo khí gas cháy tuần hoàn liên tục, giúp nông dân sấy cà phê với hiệu quả cao. Quá trình nhiệt phân còn tạo than sinh học làm phân bón cải tạo đất với đặc tính giữ nước cao, chống xói mòn, cải thiện độ tơi xốp của đất, tạo điều kiện cho vi khuẩn có lợi sinh sôi, sinh màu mỡ cho cây trồng.
Ở tỉnh Đồng Nai, có một nhà máy sản xuất cà phê lon cũng đã ứng dụng công nghệ xử lý nước thải, khí thải hiện đại nhằm giảm ô nhiễm; triển khai các biện pháp giảm khí thải carbon theo năm; đầu tư tái chế, tài sử dụng phế liệu, vật liệu sản xuất, bã càphê... thành sản phẩm dệt may, sản phẩm khử mùi.
Với mặt hàng rau quả, nắm bắt tâm lý người tiêu dùng trên thế giới ngày càng dành nhiều quan tâm hơn cho những sản phẩm được sản xuất “có trách nhiệm” và thân thiện với môi trường, nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam đã mạnh dạn đổi mới quy trình sản xuất, chế biến theo hướng bền vững, bảo đảm nguồn tài nguyên, an toàn sinh thái.
Tại tỉnh An Giang, Công ty Dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp ANTESCO đã triển khai hệ thống thu hồi phế liệu rau quả sau quá trình chế biến, đông lạnh đạt nhiều dấu hiệu khả quan. Cụ thể, nhà máy đã thu hồi toàn bộ vỏ, nước hoa quả ép thải ra môi trường để nghiền nát hoặc sấy khô làm nguyên liệu chế biến thức ăn cho gia súc, vừa tiết kiệm 20 triệu đồng chi phí thu gom rác mỗi ngày, vừa hạn chế xả chất thải rắn trực tiếp ra môi trường…
Những thay đổi về nhận thức và cách làm của doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh cà phê, rau quả gắn với bảo vệ môi trường không những có lợi về yếu tố bền vững, mà còn đem lại lợi ích trực tiếp trong kinh doanh. Xét rộng hơn, trách nhiệm từ phía doanh nghiệp đã góp phần cụ thể hóa những cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại tự do EU-Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Cũng trên cơ sở này, cần thiết xây dựng và áp dụng một bộ quy tắc ứng xử về môi trường trong ngành càphê và rau quả tại Việt Nam nhằm đưa ra các nguyên tắc, tiêu chuẩn phù hợp về thực hành kinh doanh “có trách nhiệm,” hướng tới giảm thiểu tác động tiêu cực của hoạt động sản xuất, chế biến càphê, rau quả lên môi trường, tạo nền móng vững chắc cho các mũi nhọn khác của ngành nông nghiệp Việt Nam trong tương lai.
Minh Thúy