Trong đó, số đầu đạn hạt nhân đang hoạt động là 2.150 (1.950 đầu đạn chiến lược triển khai trên 798 thiết bị phóng và 200 đầu đạn hạt nhân chiến dịch triển khai ở châu Âu), số đầu đạn dự trữ là gần 2.850. Ngoài ra, khoảng 3.500 đầu đạn đang được cất giữ trong kho.
Tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICBM) bố trí trên mặt đất
Mỹ hiện có khoảng 500 ICBM, sẽ giữ lại 400-420 theo quy định của Hiệp ước START-II. Những tên lửa trang bị các đầu đạn đa mục tiêu sẽ được chuyển đổi để chỉ mang một đầu đạn. Tuy nhiên, khả năng mang các đầu đạn đa mục tiêu của lực lượng ICBM có thể sẽ được giữ lại để có thể sử dụng hàng trăm đầu đạn đang được dự trữ nếu cần thiết.
Tên lửa đạn đạo liên lục địa Minuteman 3 của Mỹ. Ảnh: Military Today |
Lực lượng ICBM của Mỹ được biên chế trong ba không đoàn: Không đoàn tên lửa số 90 tại căn cứ không quân F.E. Warren, Wyoming; Không đoàn tên lửa số 91 tại căn cứ không quân Minot và Không đoàn số 341 tại căn cứ không quân Malmstrom, Montana.
Mỗi không đoàn có150 tên lửa được chia làm 3 phi đội, mỗi phi đội với 50 tên lửa được kiểm soát bởi 5 trung tâm kiểm soát phóng. Các tên lửa đạn đạo liên lục địa được trang bị các loại đầu đạn W78 và W87, với sức công phá 300 kiloton, còn các đầu đạn W62 với sức công phá 170 kiloton đã được tháo dỡ.
Máy bay ném bom chiến lược
Không quân Mỹ đang sở hữu 20 máy bay ném bom B-2 và 93 máy bay ném bom B-52H, trong đó 18 chiếc B-2 và 76 chiếc B-52H có khả năng hạt nhân, 16 chiếc B-2 và 44 chiếc B-52H được cho là có khả năng hạt nhân đầy đủ.
Các máy bay ném bom chiến lược của Mỹ được tổ chức thành 6 phi đội trong 3 không đoàn tại 3 căn cứ: Phi đội ném bom số 20 và 96 thuộc Không đoàn số 2 ở căn cứ không quân Barksdale; Phi đội số 23 và 69 thuộc Không đoàn số 5 ở căn cứ không quân Minot; Phi đội số 13 và 393 thuộc Không đoàn số 509 ở căn cứ không quân Whiteman.
Khoảng 300 đầu đạn hạt nhân được triển khai trên các máy bay ném bom tại 3 căn cứ trên, gồm các loại bom trọng lực B61-7, B61-11 (dành cho máy bay B-2) và B83-1; đầu đạn W80-1 được trang bị trên các tên lửa hành trình phóng từ máy bay (ALCM) dành cho máy bay B-52H.
Các máy bay B-52H dự kiến được sử dụng cho cả nhiệm vụ hạt nhân và thông thường ít nhất là đến năm 2035. Không quân Mỹ cũng dự định thay thế các tên lửa ALCM - đang trang bị cho B-52H bằng các tên lửa hành trình tầm xa tiên tiến mang đầu đạn hạt nhân vào năm 2030. Ngoài ra, từ năm 2009, hệ thống radar có ăng-ten quét mạng điện tử tiên tiến đã được lắp đặt trên các máy bay B-2.
Hiện nay, Bộ Tư lệnh Không quân tấn công toàn cầu (AFGSC) được giao chỉ huy tất cả các tên lửa ICBM và các loại máy bay ném bom hạng nặng của Mỹ trước đây do Bộ Tư lệnh Không gian và Không quân đảm nhiệm.
Theo các chuyên gia quân sự, việc tập trung các loại vũ khí hạt nhân không quân chiến lược dưới một bộ tư lệnh là để triệt để khắc phục sai sót đáng tiếc có thể xảy ra, như năm 2007, tại căn cứ không quân Minot, 6 tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân đã “vô tình” bị đưa lên một máy bay ném bom B-52 và bay tới căn cứ không quân Barksdale ở Louisiana.
Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN)
Hải quân Mỹ hiện duy trì 12 trên tổng số 14 chiếc SSBN lớp Ohio. Mỗi chiếc SSBN có thể mang 24 tên lửa đạn đạo Trident II D5; mỗi tên lửa Trident II D5 có thể mang 4 đầu đạn. Theo START-II, 48 tên lửa và 192 đầu đạn trang bị cho 2 chiếc SSBN còn lại của Hải quân Mỹ đang được đại tu không được tính là “đầu đạn được triển khai”.
Hiện hơn 60% hoạt động tuần tra của tàu ngầm SSBN là tại khu vực biển Thái Bình Dương, cho thấy việc lập kế hoạch chiến tranh hạt nhân của Mỹ nhằm hướng tới các đối thủ tiềm năng của Mỹ ở khu vực này.
Hải quân Mỹ cũng đang có kế hoạch thay thế các tàu ngầm SSBN lớp Ohio bằng 12 tàu ngầm mới, trị giá 60-80 tỷ USD. Việc đóng mới đã bắt đầu vào năm 2019, chiếc tàu ngầm đầu tiên sẽ được hạ thủy trong năm 2026 và đưa vào biên chế năm 2029. Tùy thuộc vào hiệu quả sử dụng, Mỹ có thể đóng mới nhiều tàu ngầm hơn để trang bị cho các lực lượng hạt nhân.
Theo thiết kế, mỗi tàu ngầm mới sẽ mang 16 tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm (SLBM) D-5LE - một phiên bản kéo dài thời hạn sử dụng của tên lửa D-5. Loại tên lửa này sẽ tiếp tục được trang bị cho các tàu ngầm lớp Ohio cho đến khi chúng bị thải hồi vào năm 2042. Loại đầu đạn W76-1/Mk-4A (phiên bản cải tiến của W76/Mk-4) tiếp tục được trang bị cho tên lửa D-5.
Vũ khí hạt nhân phi chiến lược
Theo Bộ Quốc phòng Mỹ, trong giai đoạn 1991-2010, số lượng vũ khí hạt nhân phi chiến lược của Mỹ đã giảm 90%, từ khoảng 7.600 xuống còn 760 đơn vị. Trong đó, tập trung cắt giảm các đầu đạn W84, một số loại bom được triển khai ở châu Âu và lưu trữ ở Mỹ, loại bỏ dần tên lửa hạt nhân tấn công mặt đất Tomahawk (TLAM/N). Nguyên nhân, vũ khí hạt nhân phi chiến lược không còn đóng vai trò cơ bản trong an ninh quốc gia của Mỹ và để thực hiện các cam kết quốc tế.
Theo các chuyên gia quân sự, Mỹ đang duy trì khoảng 200 vũ khí hạt nhân phi chiến lược B61-3/4. Trong đó, 150-200 quả bom B61-3/4 đang được triển khai tại 6 căn cứ không quân thuộc 5 nước thành viên NATO tại châu Âu (Bỉ, Đức, Italia, Hà Lan và Thổ Nhĩ Kỳ). Không quân Bỉ, Hà Lan, Thổ Nhĩ Kỳ (với các máy bay F-16), Italia và Đức (với các máy bay PA-200 Tornado) được giao nhiệm vụ tấn công hạt nhân sử dụng vũ khí hạt nhân của Mỹ.
Ngoài ra, Mỹ có khoảng 500 đầu đạn hạt nhân phi chiến lược đang lưu trữ ở các kho trong nước và trang bị trên các tên lửa Tomahawk.
Mỹ đang cùng với Nga thực hiện cắt giảm vũ khí hạt nhân theo lộ trình START-II. Tuy nhiên, để duy trì ưu thế là cường quốc vũ khí hạt nhân, Mỹ vẫn đang tiếp tục đầu tư nghiên cứu, sản xuất các loại vũ khí hạt nhân tiên tiến có độ an toàn cao, dễ dàng bảo quản và sử dụng; tập trung vào vũ khí hạt nhân chiến lược biên chế trên tàu ngầm, máy bay và tên lửa đạn đạo.
Nguyên Phong
Nga-Mỹ đàm phán kiểm soát chiến lược hạt nhân
Các quan chức ngoại giao cấp cao của Mỹ và Nga hôm 28/7 đã có cuộc đàm phán về kiểm soát chiến lược hạt nhân.
Hệ thống tên lửa chiến thuật của Nga khiến NATO đau đầu
Mạnh như vũ khí hạt nhân, hệ thống tên lửa chiến thuật của Nga khiến NATO đau đầu.