Những nội dung sửa đổi tiếp tục khẳng định chính sách và các biện pháp của Nhà nước Việt Nam bảo vệ lao động nữ, bảo vệ bà mẹ phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Bình đẳng giới và Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với Phụ nữ (CEDAW), các công ước liên quan của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).

{keywords}
Sửa Luật Lao động để đảm bảo thực thi các công ước liên quan của ILO

Các vấn đề đó có tác động, ảnh hưởng trực tiếp, sâu rộng đến hầu hết các cơ quan, tổ chức doanh nghiệp và hàng chục triệu lao động nam và lao động nữ trên thị trường lao động. Tại Hội thảo về Chính sách đối với lao động nữ và thúc đẩy bình đẳng giới trong Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức hôm 8/8, Thứ trưởng Bộ LĐ - TBXH Nguyễn Thị Hà khẳng định, việc sửa đổi Bộ luật Lao động lần này là cơ hội để chúng ta nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các cơ chế chính sách đối với lao động nữ và thúc đẩy bình đẳng giới cho phù hợp với thực tiễn của quốc gia và xu thế toàn cầu.

Do đó, Thứ trưởng đề nghị: Việc sửa đổi, bổ sung các chính sách đối với lao động nữ và thúc đẩy bình đẳng giới phải phù hợp với các nguyên tắc hiến định tại Hiến pháp năm 2013, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, đảm bảo sự tương thích với các Công ước quốc tế Việt Nam đã tham gia như Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).

Thay đổi cách tiếp cận từ “bảo vệ lao động nữ” sang cách tiếp cận “thúc đẩy bình đẳng giới và đảm bảo quyền “ đối với cả lao động nữ và lao động nam.

Xét về cơ bản, Bộ luật Lao động 2012 đã bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới. Bộ luật Lao động 2012 đã dành hẳn một chương đưa ra những quy định riêng đối với lao động nữ. Những quy định này đã đảm bảo quyền lợi và lợi ích của lao động nữ khi tham gia thị trường lao động.

Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế, xã hội, vận hành theo cơ chế thị trường và hội nhập khu vực và quốc tế trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc thực hiện các quy định liên quan đến lao động nữ và bình đẳng giới của Bộ luật Lao động 2012 đã bộc lộ một số vấn đề hoặc trở nên không còn phù hợp.

Trong lần sửa đổi này, có thể nói, các quy định về lao động nữ, bảo đảm bình đẳng giới có nhiều điểm mới, tiến bộ, cơ bản tiếp thu các khuyến nghị tại Hội thảo về Chính sách đối với lao động nữ và thúc đẩy bình đẳng giới trong Dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi) tổ chức hôm 8/8.

Cụ thể: Bộ luật quy định riêng đối với lao động nữ và đã được thay đổi về quan điểm tiếp cận bảo đảm quyền việc làm, quyền lao động của lao động nữ, vừa tạo điều kiện mở rộng cơ hội việc làm cho lao động nữ mà vẫn bảo đảm các điều kiện, tiêu chuẩn về lao động. Bổ sung quy định trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới...

Nhằm bảo vệ phụ nữ, Luật mới cũng đã bổ sung định nghĩa về hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc phòng, chống, trình tự, thủ tục xử lý hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. 

{keywords}
Sửa Luật Lao động để đảm bảo thực thi các công ước liên quan của ILO

Đánh giá về bình đẳng giới trong tuổi nghỉ hưu, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm Xã hội Phạm Trường Giang cho biết khoảng cách về tuổi nghỉ hưu thu hẹp dần trong một thập kỷ qua.

Theo báo cáo an sinh xã hội thế giới của ILO giai đoạn từ năm 2017 -2019 cho thấy, số quốc gia có tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ bằng nhau ngày càng tăng chiếm 68,4%, những nước có mức chênh lệnh tuổi nghỉ hưu 5 tuổi giữa nam và nữ ngày càng giảm. 

Khoảng cách giới về lương hưu năm 2017 cho thấy lương hưu của nữ chỉ bằng 84% nam giới, thu nhập của lao động nữ thấp hơn nam khoảng 15%. Người cao tuổi có nhu cầu làm việc sau khi nghỉ hưu ngày càng tăng, có 60% lao động ở độ tuổi từ 60 - 69 tuổi vẫn tiếp tục làm việc sau khi nghỉ hưu.

Việc sửa đổi Bộ luật Lao động lần này là cơ hội để các nhà hoạch định chính sách, chuyên gia, đại diện người lao động, người sử dụng lao động cùng nghiên cứu, nhìn nhận và thống nhất các cơ chế chính sách đối với lao động nữ, thúc đẩy bình đẳng giới cho phù hợp với thực tiễn của quốc gia và bắt kịp xu thế toàn cầu. Trong đó, cần thay đổi cách tiếp cận từ “bảo vệ lao động nữ” sang “thúc đẩy bình đẳng giới và bảo đảm quyền” đối với cả hai giới, lao động nam và lao động nữ.

Khuyến nghị về vấn đề này, đại diện UN Women tại Việt Nam cho rằng: cần thu hẹp và tiến tới xóa bỏ khoảng cách về tuổi nghỉ hưu giữa lao động nam và lao động nữ; Bảo đảm thúc đẩy bình đẳng giới, không phân biệt đối xử trên cơ sở giới về cơ hội, điều kiện, năng lực thực hiện quyền và hưởng thụ lợi ích trong lao động, đặc biệt là thực hiện chức năng thai sản, chăm sóc con nhỏ phù hợp với đặc điểm giới tính;

Hoàn thiện cơ chế chia sẻ trách nhiệm một cách phù hợp, hiệu quả giữa Nhà nước và người sử dụng lao động trong việc tổ chức nhà trẻ, mẫu giáo và hỗ trợ người lao động gửi con vào nhà trẻ, lớp mẫu giáo; Hoàn thiện khung pháp lý phòng chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc, góp phần đảm bảo môi trường làm việc an toàn lành mạnh.

Trần Hằng