Dự thảo phương án thi THPT và xét tuyển ĐH, CĐ 2017 đề cập tới nhiều vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, mới chỉ có một số khía cạnh của dự thảo như sử dụng hình thức thi trắc nghiệm cho môn toán, lộ trình năm 2017 được đưa ra bàn thảo khá kỹ càng. Do vậy, bài viết này sẽ tập trung phân tích những vấn đề khác của dự thảo như thiết kế các đề thi Khoa học tự nhiên (KHTN) và Khoa học xã hội (KHXH), tính bền vững của phương án, và đưa ra một số khuyến nghị chính sách.

Trước khi bàn chi tiết hai vấn đề này, việc đặt phương án này trong toàn bộ hệ thống các chính sách giáo dục là một cách tiếp cận hợp lý để xem xét và đánh giá các phương án tổ chức thi này.

{keywords}

Thí sinh thi THPT quốc gia năm 2016 (Ảnh Đinh Quang Tuấn)

Đặt chính sách thi cử trong hệ thống chính sách giáo dục

Trước hết, các hoạt động thi cử nên được xem là một cấu phần của chương trình giáo dục (curriculum). Đến lượt mình, chương trình giáo dục ở phổ thông cũng như các cấp học cao hơn là nền tảng để xây dựng và triển khai các phương án thi cử, xét tuyển.

Hơn nữa, các chính sách thi cử cũng cần được đặt trong mối quan hệ với các vấn đề xã hội và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội.

Nhìn dự thảo phương án thi 2017 từ góc độ hệ thống này, ta có thể thấy (i) Phương án là một giải pháp thi cử quá độ từ một chương trình giáo dục thiên về truyền tải kiến thức sang một hệ thống giáo dục hướng tới phát triển năng lực (competency), (ii) Dự thảo hướng tới việc gọn nhẹ hóa kỳ thi THPT, giảm áp lực học thêm, dạy thêm vì mục đích thi cử; và (iii) Trao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học theo đúng như Luật giáo dục đại học hiện hành đang quy định.  Nếu những nhận định này là đúng, thì dự thảo nếu được triển khai thành công, sẽ là một bước đi ban đầu cho một lộ trình ổn định hóa hệ thống thi cử trong trung và dài hạn.

Kinh nghiệm quốc tế ở một số nơi trên thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc cũng cho thấy một hệ thống thi cử sử dụng nhiều phương thức đo lường ở các bước đánh giá khác nhau tùy theo mục đích đánh giá cũng như nguồn lực của từng bước là một giải pháp có tính bền vững cao. Tuy nhiên, để đảm bảo thành công của phương án thi 2017 và các năm tiếp theo, một số vấn đề kỹ thuật về xây dựng đề thi cần được chỉnh sửa cho phù hợp hơn.

Một số vấn đề kỹ thuật

Thứ nhất, số lượng câu hỏi thi trong mỗi phần thi trong các đề thi KHTN, KHXH cần được xác định để đảm bảo độ tin cậy tối thiểu cho các phần thi này. Thông thường, điểm các đề thi chuẩn hóa quan trọng (high-stake) nên có độ tin cậy quanh ngưỡng 0.9. Nếu độ tin cậy thấp hơn ngưỡng này, điểm thi sẽ có sai số đáng kể và điều này ảnh hưởng tới chất lượng và tính công bằng của các quyết định xét tốt nghiệp hay tuyển sinh.

{keywords}

Thí sinh thi THPT quốc gia năm 2016 (Ảnh Đinh Quang Tuấn)

Để đảm bảo độ tin cậy ở mức độ chấp nhận được, các đề thi chuẩn hóa quan trọng thường có không dưới 30 câu hỏi trắc nghiệm. Tất nhiên, càng nhiều câu hỏi, chất lượng câu hỏi càng cao, thí sinh càng làm bài nghiêm túc thì độ tin cậy của điểm càng cao. Tuy nhiên, các yếu tố về thời gian và nguồn lực cũng có tính quyết định tới việc lựa chọn số lượng câu hỏi.

Thứ hai, đối với đề thi KHTN và KHXH, do đây là giải pháp quá độ, các đề thi này vẫn chứa các phần thi riêng rẽ cho các môn như Vật Lý, Hóa Học, Sinh Học hay Sử, Địa, Giáo dục Công dân. Theo như dự thảo, các trường có thể dùng các đầu điểm này cho mục đích tuyển sinh. Do vậy, độ tin cậy của điểm các phần thi này cần được đảm bảo. Số lượng 20 câu hỏi cho từng môn thi có lẽ là không đủ để đạt được độ tin cậy cần thiết.

Ngoài ra, việc tổ chức thi các bài thi này như thế nào cũng là vấn đề cần xem xét. Nếu phát cả ba phần thi của đề thi KHTN, KHXH cho thí sinh ngay từ đầu, có thể một số thí sinh sẽ chỉ tập trung vào làm các phần thi mà mình sẽ dùng để dự tuyển đại học. Nếu điều này xảy ra, tính chuẩn hóa về mặt thời gian của các phần thi sẽ bị ảnh hưởng và do vậy cũng sẽ ảnh hưởng tới độ tin cậy của điểm của các phần thi này.

Ngoài các vấn đề về kỹ thuật trên, tính bền vững của phương án trong trung dài hạn cũng là vấn đề đang được cộng đồng quan tâm.

Tính bền vững của phương án

Tính bền vững của phương án này phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Tuy nhiên, một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới điều này có thể kể đến là (i) Tính phù hợp của phương án với chương trình giáo dục và những cải cách chương trình sắp tới, (ii) Chất lượng đề thi, tổ chức thi, (iii) Tính đồng bộ của các chính sách sử dụng kết quả thi, tổ chức hệ thống giáo dục, tổ chức chương trình giáo dục, (iv) Sự đồng thuận của người dân, và (v) Sự ủng hộ của lãnh đạo.

Trong bài viết này, ba vấn đề đầu tiên sẽ được phân tích chi tiết. Sự đồng thuận của cộng đồng và sự quyết tâm của lãnh đạo có lẽ phụ thuộc vào ba yếu tố đó.

Thứ nhất, như đã đề cập ở trên, kinh nghiệm quốc tế cho thấy một hệ thống thi cử dựa trên nhiều phương thức đo lường tùy theo mục đích thi cử là linh hoạt và đáp ứng được với những thay đổi trong chương trình giáo dục. Việc có các tổ chức độc lập chuyên trách công tác khảo thí cũng sẽ giúp cho hệ thống giáo dục vận hành một cách mạch lạc, tránh tính trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” và “ôm đồm trách nhiệm” của các cơ quan quản lý nhà nước trong nhiều năm qua. Khi công tác làm đề thi, tổ chức thi được chuyên nghiệp hóa, chất lượng đề thi và chấm thi, phân tích kết quả thi sẽ có điều kiện được cải tiến liên tục.

Công nghệ làm các đề thi chuẩn hóa đã được xây dựng và phát triển từ đầu thế kỷ 20. Việc từng bước học hỏi và “nhập khẩu” các công nghệ này để phục vụ công tác làm đề thi là việc làm hoàn toàn khả thi trong trung và dài hạn. Quan trọng hơn cả là vấn đề xây dựng một “hệ sinh thái” các chính sách giáo dục đồng bộ để toàn bộ hệ thống sử dụng hiệu quả và đúng đắn các kết quả thi.

Ví dụ, nếu phương án chỉnh sửa như dự thảo 2017 này được triển khai, các trường sẽ tuyển sinh dựa trên các thông tin gì? Có cần tổ chức thêm các kỳ thi tuyển sinh ở cấp độ trường hay nhóm trường nữa không? Khi chương trình phổ thông thay đổi, các đề thi của phương án sẽ được điều chỉnh thế nào cho phù hợp? Nếu dùng các kết quả thi của phương án này để tuyển sinh, việc tổ chức đào tạo, lựa chọn ngành học ở bậc ĐH, CĐ có cần được điều chỉnh cho phù hợp không? Đó là những câu hỏi về mặt chính sách cần được đặt ra và cần được trả lời thấu đáo.

{keywords}

Phụ huynh chờ con làm bài thi (Ảnh Đinh Quang Tuấn)

Một số khuyến nghị

Thứ nhất, cần tăng số lượng câu hỏi và thời lượng cho đề thi KHTN, KHXH. Mỗi phần thi của từng môn trong các đề thi này cần có từ 30 – 50 câu hỏi. Về mặt tổ chức thi, nên tổ chức để mỗi thí sinh tại một thời điểm chỉ được phép làm một phần trong đề thi KHTN, KHXH. Thời lượng cho từng phần thi cũng cần được quy định rõ ràng và thí sinh không được dùng thời gian làm phần thi này để làm phần thi khác.

Thứ hai, cần sớm đưa ra đề thi mẫu để học sinh tham khảo và cộng đồng giáo dục phản biện. Sau khi được tiếp cận đề thi mẫu, nếu học sinh và cộng đồng giáo dục yên tâm về chất lượng cũng như hiểu được yêu cầu và ước lượng được mức độ khó của đề thi, học sinh và cộng đồng có thể bớt lo lắng hơn. Ngược lại, nếu đề thi không được sự ủng hộ của cộng đồng, phương án như dự thảo 2017 nêu ra sẽ khó có thể khả thi ngay trong năm nay.

Thứ ba, cần đặt phương án thi cử này trong bối cảnh tổng thể của các chính sách giáo dục khác như tổ chức và triển khai chương trình giáo dục, chính sách tuyển sinh, chính sách xét tốt nghiệp, chính sách đào tạo giáo viên… Các chính sách này phải được điều chỉnh để hài hòa với nhau nhằm tạo ra hiệu ứng tích cực cho toàn bộ nền giáo dục trong trung và dài hạn.

Một đề xuất có thể dễ dàng được triển khai khi có trung tâm khảo thí độc lập là thí sinh có thể thi tốt nghiệp nhiều lần. Đây là điều mà bang Massachusetts đã và đang áp dụng trong nhiều năm qua. Ở bang này, kỳ thi tốt nghiệp THPT được tổ chức vào lớp 10 và thí sinh có thể thi tốt nghiệp mỗi môn tối đa là 4 lần trong suốt các năm học THPT.

Cuối cùng, và cũng là quan trọng nhất, cộng đồng những người có quan tâm tới vấn đề đổi mới thi cử này, trong đó có cả những học sinh đang học lớp 11, 12 cần tiếp tục lên tiếng và đóng góp ý kiến phản biện các khía cạnh khác nhau của phương án này.

Đặc biệt, tiếng nói của học sinh, thí sinh tự do, giáo viên, phụ huynh mà dự thảo có ảnh hưởng trực tiếp sau khi được tiếp cận với các đề thi mẫu là căn cứ quan trọng cho các cơ quan có trách nhiệm. Dựa trên những phản hồi này, các cơ quan hữu trách có thể ra các quyết định có chỉnh sửa dự thảo hoặc có triển khai phương án này ngay trong năm 2017 này hay không.

Trong mọi tình huống, chúng ta có thể hi vọng rằng việc học sinh học chắc chương trình đã được quy định sẽ là sự chuẩn bị tốt nhất cho mọi phương án thi.  

Phạm Ngọc Duy (Nghiên cứu sinh về Đo lường và Tâm trắc học Giáo dục, ĐH Massachusetts Amherst)