Phát thải ròng khí nhà kính bằng “0” vào năm 2050 là mục tiêu lớn của Chính phủ Việt Nam, nhằm đóng góp vào nỗ lực chung toàn cầu chống biến đổi khí hậu. Không chỉ là cam kết chính trị, Net Zero đã trở thành xu hướng mới trong tái cấu trúc các nền kinh tế theo hướng các-bon thấp, song hành phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Trong diễn đàn doanh nghiệp phát triển bền vững Việt Nam mới đây, ông Nguyễn Trung Anh – Giám đốc Nghiên cứu Phát triển và Phát triển bền vững, Tập đoàn PAN cho rằng, Chính phủ sau khi cam kết Net Zero với thế giới đã kêu gọi doanh nghiệp cùng tham gia vào thực hiện mục tiêu chung của quốc gia. 1.912 doanh nghiệp phát thải lớn phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính và xây dựng kế hoạch giảm phát thải trong những năm tới.
Do vậy, các công ty thành viên của PAN không nằm trong nhóm này. Ông Trung Anh cho rằng, việc áp dụng các mô hình phát thải thấp sẽ giúp Tập đoàn tuân thủ các yêu cầu về phát triển xanh của Chính phủ.
Hơn nữa, áp lực phải xanh hơn, sạch hơn từ các khách hàng cũng khá lớn. Điển hình là nhiều khách hàng từ EU rất coi trọng việc truy dấu vết các-bon trên sản phẩm. Như vậy, các nhà cung cấp phải thực hiện kiểm kê các-bon và giải pháp giảm dấu vết các-bon trên sản phẩm của mình.
Bên cạnh đó, chính bản thân doanh nghiệp cũng có nhu cầu về tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh như cần giảm chi phí, tiết kiệm tài nguyên và tối ưu hóa quá trình sản xuất. Đây cũng là động lực để doanh nghiệp áp dụng các mô hình kinh tế phát thải thấp.
Nói về lợi ích, ông Trung Anh cho hay, doanh nghiệp sẽ nhận thấy ngay khi áp dụng các giải pháp ở cấp độ nhà máy sản xuất, đó là tiết kiệm chi phí và giảm phát thải.
“Nhờ tối ưu hóa tài nguyên, giảm phân bón, nước trong canh tác nông nghiệp, sử dụng năng lượng tái tạo và tăng hiệu suất thiết bị, PAN có thể tiết kiệm hàng chục tỷ đồng mỗi năm.
Bên cạnh đó, doanh thu và lợi nhuận đều tăng do 2 nguyên nhân. Thứ nhất, giá trị thương hiệu tăng khi đưa hàng ra thị trường quốc tế và có thể thâm nhập các thị trường có giá trị cao hơn. Thứ hai, việc tận dụng phế phẩm, phụ phẩm cũng đem lại nguồn thu lớn. Chẳng hạn, hàng năm, công ty của PAN có hàng nghìn tấn vỏ tôm sau chế biến. Thay vì tốn chi phí xử lý, Tập đoàn hợp tác với công ty khác chế biến thành thức ăn chăn nuôi, từ đó có thêm khoản thu khoảng 15 tỷ đồng mỗi năm”, ông Trung Anh chia sẻ thêm.
Trong khi đó, ông Vũ Chí Công, Giám đốc, Trưởng bộ phận ESG, Tập đoàn Vinacapital cho rằng, nguồn vốn xanh hiện nay khá dồi dào nhưng cơ hội đầu tư vào Việt Nam không nhiều.
Theo ông Công, vấn đề ở chỗ doanh nghiệp chưa cung cấp được nguồn thông tin, dữ liệu của mình về phát triển bền vững như công khai thông tin trên sản phẩm nhãn mác về nguồn nguyên liệu. Khi các quỹ đầu tư tiếp cận, họ không có căn cứ để biết doanh nghiệp hoạt động có phù hợp với các tiêu chí đầu tư xanh hay không. Hiện nay, mới có các doanh nghiệp lớn làm được điều này, những doanh nghiệp nhỏ hoàn toàn có thể thực hiện ở quy mô đơn giản hơn.
“Doanh nghiệp cần xem xét lại lĩnh vực kinh doanh của mình có tác động như thế nào đến phát triển bền vững, cả tích cực và tiêu cực. Với tác động tiêu cực thì sẽ có giải pháp gì. Từ đó, để có định hướng ghi chép, cập nhật thông tin, dữ liệu cần thiết. Doanh nghiệp nào làm tốt công tác kiểm kê, lưu trữ và công bố thông tin sẽ có lợi thế lớn hơn”, ông Công nói.
Ông Nguyễn Quang Vinh, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho hay, cộng đồng doanh nghiệp thế giới đang chuyển mình rất mạnh mẽ hướng tới mục tiêu Net Zero trên hành trình kinh doanh bền vững.
Theo ông Vinh, các tiêu chuẩn về doanh thu, lợi nhuận, lợi ích cổ đông hay những con số tài chính không còn là thước đo duy nhất cho thành công của doanh nghiệp, mà giờ đây đã mở rộng thêm khả năng thích ứng, chống chịu và phục hồi trước những thách thức chưa từng có trong tiền lệ. Chỉ khi cân bằng được chiếc kiềng 3 chân: kinh tế – xã hội – môi trường, doanh nghiệp mới có thể thành công trong thời đại ngày nay.
Hơn nữa, xu hướng kinh doanh bền vững toàn cầu hiện nay, như: chuyển dịch sang mô hình kinh tế tuần hoàn, lồng ghép vấn đề tự nhiên và đa dạng sinh học vào các mục tiêu về khí hậu; củng cố nguồn vốn con người; xây dựng văn hóa đa dạng, bao trùm và bình đẳng trong doanh nghiệp; thẩm thấu tư duy quản trị theo định hướng ESG từ ban lãnh đạo doanh nghiệp và công bố minh bạch thông tin thông qua lập báo cáo bền vững.
Ông Vinh cho rằng, doanh nghiệp Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc đua này. Đứng trước các yêu cầu về phát triển xanh, phát triển bền vững, cộng đồng doanh nghiệp cần định nghĩa lại thành công của doanh nghiệp không chỉ nằm ở các con số tài chính mà còn bao gồm khả năng thích ứng, chống chịu và phục hồi trước những thách thức chưa từng có trong tiền lệ. Hay doanh nghiệp cần gắn kết thành công, tăng trưởng dài hạn của mình với lợi ích bền vững của cộng đồng, xã hội và môi trường.
Khi đã chuyển đổi về tư duy, các doanh nghiệp cũng cần tập trung cho một số ưu tiên hành động, đó là, chuyển đổi chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng của doanh nghiệp theo hướng bền vững hơn; thúc đẩy trách nhiệm giải trình trong doanh nghiệp và thúc đẩy chuyển đổi kép; tức là chuyển đổi số song hành cùng chuyển đổi xanh.