Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng, các nhà máy nhiệt điện than sẽ tiếp tục giữ vai trò chủ lực trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, để khắc phục mặt trái ô nhiễm môi trường cần các giải pháp đồng bộ.
Công nghệ mới giúp giảm thiểu ô nhiễm môi trường
Nhiều nước trên thế giới, sản lượng nhiệt điện than trong cân bằng hệ thống chiếm tỷ lệ cao, có nhiều nước chiếm tỷ lệ tới trên 60-70% như: Ấn Độ, Australia, Trung Quốc … Việc đầu tư phát triển các nhà máy nhiệt điện than sẽ đảm bảo cung cấp đủ nguồn điện ổn định và an toàn cho hệ thống, nhưng mặt trái của nó là gây ra ô nhiễm môi trường.
Các dự án nhiệt điện than của Việt Nam trước đây hầu hết đều có công nghệ, thiết bị lạc hậu, dẫn tới việc phát thải các loại khí độc hại như: CO2, SO2,, NOx còn cao.
Để giảm thiểu vấn đề về ô nhiễm môi trường của các nhà máy nhiệt điện than, thì cần phải áp dụng công nghệ hiện đại, thiết bị hiện đại. Ví dụ như lò hơi thì phải trang bị những lò hơi hiện đại siêu tới hạn, có khả năng khử được phần lớn các khí độc hại như: CO2, SO2,, NOx, mặt khác cần đầu tư thiết bị lọc bụi tĩnh điện loại hiện đại.
Việc dùng dầu để khởi động lò cần sử dụng lò hơi để đốt được dầu FO, thay cho dầu DO, lâu nay chúng ta đang sử dụng. Hệ thống lò hơi, tua bin, máy phát điện, hệ thống điều khiển, hệ thống xử lý nước tuần hoàn, hệ thống thải xỉ và các công đoạn khác trong nhà máy cần được trang bị những thiết bị tiên tiến hiện đại.
Tuy rằng, việc đầu tư vào những trang thiết bị hiện đại, suất đầu tư cao hơn nhưng lại giảm thiểu được ô nhiễm môi trường, nhà máy sẽ hoạt động chất lượng cao, đảm bảo an toàn, ổn định và độ bền của nhà máy cũng sẽ được kéo dài, tức là xét trên tổng thể kinh tế, xã hội, môi trường hiệu quả sẽ cao hơn.
Theo Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, việc đầu tư xây dựng các nhà máy nhiệt điện than nên áp dụng công nghệ hiện đại và cần thiết bị hiện đại của các nước tiên tiến trên thế giới (các nước G7). Ví dụ, lò hơi nên mua của Pastinhou (Mỹ), Mitsuba Cap (Anh), Mitsubishi (Nhật Bản)…. Nếu chúng ta làm được như vậy thì vấn đề lo ngại về ô nhiễm môi trường sẽ không còn là vấn đề lớn đối với các dự án nhà máy nhiệt điện than.
Tái chế chất thải nhiệt điện than thành vật liệu xây dựng
Các đây 2 năm, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đã có văn bản kiến nghị lên Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội về chủ trương, cơ chế, chính sách để khai thác, sử dụng tối đa các chất thải xỉ than, tro bay của các nhà máy nhiệt điện than để sản xuất ra vật liệu xây dựng không nung thay thế cho vật liệu xây dựng nung, nhưng trên thực tế việc này chưa được giải quyết một cách mạnh mẽ.
Đã có nhiều doanh nghiệp kể cả tư nhân đã khai thác sử dụng chất thải xỉ để làm vật liệu xây dựng không nung, nhưng tỷ lệ còn thấp, chỉ chiếm 30% trong tổng khối lượng chất thải từ các nhà máy nhiệt điện than.
Để hạn chế tối đa sản xuất vật liệu xây dựng nung và cho phát triển mạnh vật liệu xây dựng không nung cần có cơ chế như giảm, miễn thuế; Có quy định ràng buộc về việc sử dụng vật liệu xây dựng không nung, có thể hỗ trợ thêm nguồn vốn để các doanh nghiệp đầu tư thì chắc chắn việc khai thác sử dụng chất thải nhà máy nhiệt điện than làm sản phẩm vật liệu xây dựng sẽ được tiêu thụ một cách tối đa. Như vậy, vừa giảm thiểu được ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra sản phẩm mới trong lĩnh vực xây dựng.
Cần chiến lược phát triển bền vững ngành Than
Dự kiến đến năm 2050, phát triển nhiệt điện than đạt 50-60% trong tổng sơ đồ điện quốc gia, thì vấn đề ô nhiễm môi trường không là quan ngại. Tuy nhiên để phát triển được khối lượng, sản lượng nhiệt điện than lớn như vậy thì khâu đáp ứng nguồn than là rất quan trọng. Chính vì vậy cần có những chủ trương, chiến lược phát triển bền vững ngành Than để đáp ứng cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện than.
Năm 2012, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển ngành Than, trong đó cho xây dựng 28 dự án mới và cải tạo mở rộng 61 dự án mỏ cũ. Đến năm 2016 Chính phủ đã phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành Than, song tiến độ thực hiện các dự án thăm dò, dự án khai thác than vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Xác định được đầy đủ, chính xác tiềm năng trữ lượng than ở Quảng Ninh, vùng Đông Bắc, Đồng bằng Sông Hồng và các nơi là rất quan trọng trong việc lập chiến lược và quy hoạch ngành Than. Hiệp hội Năng lượng Việt Nam kiến nghị Chính phủ giao cho Bộ Tài nguyên Môi trường và các bộ, ngành liên quan, trong thời gian tới cần có các giải pháp thích đáng, quyết liệt để thúc đẩy công tác thăm dò xác định được tiềm năng than ở mức độ nào; Cần có cơ chế, chính sách hợp lý và có các biện pháp thích đáng hỗ trợ thúc đẩy đầu tư xây dựng phát triển ngành Than nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu than ổn định cho ngành Điện lực và các ngành kinh tế khác, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Trần Viết Ngãi
Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam