Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đặc biệt, ưu tiên đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, tuy nhiên hiện nay vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi vẫn là vùng khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao, cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội thiết yếu và chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, khoảng cách giàu nghèo có xu hướng tăng, tiềm ẩn phức tạp về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đặc biệt, ưu tiên đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Ảnh minh họa. |
Chiều tối 26/11, tại Nhà Quốc hội, đã diễn ra Hội nghị triển khai Nghị quyết của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Mở đầu cho sự kiện này, Tổng Thư ký, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc đã công bố nội dung Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030. Đây là Nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua vào ngày 18/11/2019 với 89,44% đại biểu Quốc hội tán thành.
Dư luận chung đánh giá, việc ban hành Nghị quyết quan trọng này là một quyết định đúng chủ trương, đường lối của Đảng, đúng Hiến pháp; tiếp tục thực hiện lời dặn của Bác Hồ đối với công tác dân tộc, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng rẻo cao, miền núi, biên giới và khu căn cứ cách mạng; để ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, từng bước vững chắc, để miền núi tiến kịp miền xuôi, đồng bào ngày càng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 vừa được Quốc hội thông qua vào ngày 18/11/2019 với 89,44% đại biểu Quốc hội tán thành. Ảnh minh họa. |
Đề án tập trung ưu tiên đầu tư cho địa bàn đặc biệt khó khăn, trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đối tượng được hưởng lợi là các xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo, sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khăn và doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn...
Theo đó, xác định các mục tiêu cụ thể đến năm 2025, trong đó đáng chú ý là phấn đấu mức thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số tăng hơn hai lần so với năm 2020. Định hướng mục tiêu đến năm 2030 là thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số bằng 1/2 bình quân chung của cả nước, giảm hộ nghèo xuống dưới 10%, cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn, 70% số xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt chuẩn nông thôn mới…
Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến đã trình bày dự thảo Chương trình hành động của Chính phủ triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030; đồng thời cho biết sau hội nghị, bản dự thảo sẽ được hoàn chỉnh, xin ý kiến các thành viên Chính phủ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo quy định để ban hành chính thức.
Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khẳng định, Việt Nam luôn nỗ lực thực hiện có trách nhiệm việc đầu tư phát triển bền vững ở cả ba trụ cột: Phát triển kinh tế - xã hội bình đẳng, công bằng và môi trường được bảo vệ; trong đó coi trọng vai trò quyết định, giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, đồng hành cùng Chính phủ trong thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững, bảo đảm nguyên tắc công bằng - đoàn kết - tương trợ giúp nhau để phát triển trong đồng bào các dân tộc thiểu số.
Phát triển kinh tế-xã hội vùng dân tộc thiểu số vì mục tiêu |
Hiện nay, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số không phải là ít. Sau khi rà soát có đến 118 chính sách, nhưng lại không tập trung, mà nằm rải rác ở các lĩnh vực, các bộ, ngành, chương trình, đề án. Đây là dịp để tích hợp 118 chính sách trở thành một chương trình mục tiêu Quốc gia, đầu tư phát triển bền vững cho đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi.
Vì thế, Nghị quyết đã chỉ rõ các chỉ tiêu, trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên, mục tiêu của chương trình này được ban hành tránh chồng chéo, trùng lắp, thất thoát, lãng phí và minh bạch cho việc thanh tra, kiểm tra, giám sát. Đây cũng là một nội dung thiết thực thực hiện Bộ công cụ tự đánh giá thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững mà Liên hợp quốc và Liên minh nghị viện thế giới đã xác định, chọn Việt Nam làm điểm.
Quan sát quyết tâm chính trị để chuẩn bị triển khai thực hiện nghị quyết quan trọng này, có thể nói, đây là minh chứng rõ ràng về nỗ lực và trách nhiệm của Việt Nam trong việc đầu tư phát triển bền vững ở các trụ cột nền tảng đảm bảo quyền con người: phát triển kinh tế - xã hội bình đẳng, công bằng và môi trường được bảo vệ.
Trần Hằng