Trong mỗi giai đoạn lịch sử, chính sách dân tộc của Việt Nam luôn được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển của đất nước. Đặc biệt, trong thời kỳ đổi mới, các nguyên tắc, quan điểm cơ bản về vấn đề dân tộc tiếp tục được khẳng định và bổ sung nhằm phát huy mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Cộng đồng 54 dân tộc (1 dân tộc đa số và 53 dân tộc thiểu số) sống trên đất nước ta đều có những giá trị văn hóa mang các sắc thái riêng được bổ sung cho nhau, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Các thành tựu văn hóa của các dân tộc anh em góp phần củng cố sự thống nhất dân tộc – cơ sở để giữ vững sự bình đẳng  và đại đoàn kết các dân tộc và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng gần đây tiếp tục khẳng định và làm rõ: “Trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hoá, con người. Mọi hoạt động văn hoá, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hoá; phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số, văn hoá tôn giáo, xây dựng thiết chế văn hoá,… đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người.”

53 dân tộc thiểu số với kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, phong phú và đa dạng bao gồm: Kiến trúc, trang phục, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, dân ca, dân nhạc, dân vũ,… có thể xem văn hóa các dân tộc thiểu số như “bức tranh thổ cẩm” được chính đồng bào thêu dệt tinh tế và tươi màu rực rỡ bởi những nét văn hóa đậm đà bản sắc của chính cộng đồng dân tộc mình. Đời sống kinh tế ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong thời gian 15 năm qua đã từng bước được nâng cao do có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách đặc thù, tuy vậy vùng miền núi và dân tộc thiểu số tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh quan điểm phát triển: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc... lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững”, “Khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và đời sống văn hóa giữa các vùng, miền, các giai tầng xã hội, đặc biệt quan tâm đến vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số... Quan tâm, tạo điều kiện phát triển văn hóa, văn nghệ của các dân tộc thiểu số”.

miennui.jpg

Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, thời gian qua, Nhà nước đã ban hành các chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số, xin đơn cử một số lĩnh vực cơ bản sau: 

Bảo tồn, phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác giáo dục ngôn ngữ đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc bảo tồn tiếng nói, chữ viết dân tộc thiểu số, 27/53 dân tộc thiểu số có bộ chữ viết riêng của dân tộc mình, như Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông, Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xơ-đăng, Chăm, Cơ-ho, Mnông... được bảo tồn.

Một số ngôn ngữ được sử dụng trên Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các đài phát thanh và truyền hình địa phương, và được sử dụng để in các tác phẩm văn nghệ truyền thống, các sáng tác mới... Bên cạnh đó, việc tổ chức dạy, học ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng được triển khai ở các trường học vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên cả nước.

Hiện nay, cả nước đã có 30 tỉnh triển khai với 700 trường học tiếng dân tộc thiểu số; phát hành 8 chương trình tiếng dân tộc (Chăm, Khmer, Gia-rai, Ba-na, Ê-đê, Mông, Mnông, Thái) và 6 bộ sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số (Chăm, Khmer, Gia-rai, Ba-na, Ê-đê, Mông). Nhiều địa phương đã khảo sát, thống kê, sưu tầm tiếng nói, chữ viết, thư tịch cổ của các dân tộc; biên soạn, xuất bản sách tiếng dân tộc thiểu số.

Bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1270/QĐ-TTg, ngày 27-7-2011, “Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”” nhằm huy động sức mạnh của toàn xã hội phát triển văn hóa dân tộc, góp phần để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia, hướng tới bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình thực tế...;

Quyết định số 2493/QĐ-TTg, ngày 22-12-2016, “Phê duyệt Đề án Kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020”, hướng tới mục tiêu huy động nguồn lực của toàn xã hội cùng tham gia gìn giữ, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc; tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa của toàn xã hội, các chủ thể văn hóa và tổ chức, cá nhân có liên quan.

Quyết định số 936/QĐ-TTg, ngày 30-6-2017, “Phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển văn hóa giai đoạn 2016 - 2020”, trong đó có mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa đặc sắc của dân tộc; phát triển các công trình văn hóa hiện đại, có ý nghĩa biểu tượng quốc gia, ý nghĩa chính trị, lịch sử, truyền thống đặc sắc hướng tới mục tiêu chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 4686/QĐ-BVHTTDL, ngày 31-12-2013, “Phê duyệt Đề án tổ chức định kỳ “Ngày hội, giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch vùng đồng bào các dân tộc thiểu số” theo khu vực và toàn quốc giai đoạn 2013 - 2020”;

Quyết định số 3965/QĐ-BVHTTDL, ngày 16-11-2015, “Về việc phê duyệt Dự án “Chương trình hoạt động, lễ hội và biểu diễn văn hóa nghệ thuật các dân tộc cấp tỉnh, vùng và quốc gia giai đoạn 2015 - 2020” (thuộc Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020” theo Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ)”...

Qua đó, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa được diễn ra trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng địa phương, từng dân tộc, như Giao lưu văn hóa các dân tộc tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam hằng năm; ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc, miền Trung và miền Đông Nam Bộ, ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Chăm, Khmer, Mường, Dao, Hoa, Thái...; liên hoan nghệ thuật hát then, đàn tính các dân tộc Tày, Nùng, Thái.... Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm kê, sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc thiểu số Việt Nam được nâng cao.

Các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng được lập hồ sơ khoa học, xếp hạng cấp quốc gia và quốc gia đặc biệt. Việt Nam đã có nhiều di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, như Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (năm 2008); Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam (năm 2019); Nghệ thuật Xòe Thái (năm 2022)...

Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Quyết định số 209/QĐ-BVHTTDL, ngày 18-1-2019, về việc phê duyệt Đề án “Bảo tồn trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” với mục tiêu bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số, khơi dậy lòng tự hào đối với văn hóa và trang phục truyền thống các dân tộc, hình thành ý thức, động lực để chính các chủ thể văn hóa, các cấp chính quyền địa phương có ý thức bảo tồn, phát huy và sử dụng trang phục truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống.

Cùng với việc ban hành các văn bản trên, xác định những người có uy tín, già làng, trưởng bản, các nghệ nhân có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo tồn, trao truyền, phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu của các dân tộc thiểu số, hằng năm, Đảng và Nhà nước tổ chức gặp mặt già làng, trưởng bản, những người có uy tín là người dân tộc thiểu số, trao tặng danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú cho các nghệ nhân đã có nhiều cống hiến xuất sắc trong gìn giữ và phát huy di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc, như nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; tri thức dân gian; ngữ văn dân gian; tiếng nói, chữ viết; lễ hội truyền thống...

Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch

Thời gian qua, nhiều địa phương trên cả nước đã khai thác các giá trị văn hóa địa phương, tạo nên những sản phẩm du lịch khá hấp dẫn. Một số mô hình phát triển du lịch đã hình thành và hoạt động khá hiệu quả, như du lịch cộng đồng người Thái ở Bản Mển (xã Thanh Nưa, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên) và Bản Áng (xã Đông Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La); du lịch cộng đồng người Dao ở bản Nậm Đăm (xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang), du lịch cộng đồng của người Lự ở bản Thẳm (huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu)...

Vấn đề liên kết vùng, hợp tác giữa các đơn vị, tổ chức và việc ứng dụng khoa học - công nghệ, truyền thông trong hoạt động du lịch ngày càng được chú trọng trong các hoạt động bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa, trong đó phải kể đến tuyến du lịch “Qua những miền di sản Việt Bắc”; “Con đường di sản miền Trung”, “Con đường xanh Tây Nguyên”; “Không gian cồng chiêng Tây Nguyên”; “Du lịch cội nguồn”, “Cội nguồn Tây Bắc”, “Sắc màu vùng cao”; “Du lịch vòng cung Tây Bắc”...  

Việc triển khai chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch khá hiệu quả, góp phần vừa phục hồi, bảo tồn, phát huy nhiều giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu của các vùng, miền trên cả nước, vừa tạo thêm việc làm, tăng thu nhập; qua đó, thúc đẩy quá trình xóa đói, giảm nghèo tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Phủ sóng phát thanh, truyền hình vùng dân tộc thiểu số 

Một số chính sách liên quan đến công tác truyền thông đã được ban hành, góp phần tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung và chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng đến với đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, như các quyết định của Thủ tướng Chính phủ.

Ngày 24/2, tại huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) phối hợp Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Hà Giang tổ chức Lễ công bố phát sóng FM Kênh phát thanh Dân tộc Quốc gia. Việc Đài TNVN khánh thành và đưa vào sử dụng trạm phát sóng FM Kênh phát thanh Dân tộc Quốc gia tại huyện Quản Bạ tiếp tục thể hiện sự quan tâm của Đảng, Chính phủ nói chung và của Đài TNVN nói riêng trong việc chuyển tải các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, những vấn đề quốc tế, trong nước và địa phương đến với đồng bào các dân tộc trong tỉnh, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an ninh quốc phòng tại địa bàn một tỉnh biên giới.

Đến nay, Đài TNVN đã phát 12 thứ tiếng dân tộc thiểu số trên sóng quốc gia. Đó là tiếng Mông – Thái – Dao ở khu vực miền núi phía Bắc; tiếng Ba Na, Ê Đê, Gia Rai, K’Ho, Xơ Đăng, M’Nông và Cơ Tu ở khu vực miền Trung và Tây Nguyên, tiếng Chăm và Khmer ở khu vực Nam Bộ, với tổng thời lượng phát sóng hàng ngày gần 30 giờ.

Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các đài phát thanh, truyền hình địa phương, các cơ quan báo chí và truyền thông trên cả nước cũng tích cực phủ sóng và nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin, tuyên truyền về công tác dân tộc trên khắp mọi miền Tổ quốc.

Lưu trữ các văn bản cổ, về hoạt động nghe nhìn, sáng tác văn học, nghệ thuật về chủ đề dân tộc thiểu số

 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1558/QĐ-TTg, ngày 5-8-2016, “Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát huy giá trị tác phẩm văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam””.

Đề án đã khảo sát, điều tra, nghiên cứu, sưu tầm, xây dựng hệ thống tư liệu, sáng tạo, xuất bản, phát hành, quảng bá các công trình văn học, nghệ thuật về các dân tộc thiểu số Việt Nam dưới dạng sách in, sách điện tử (Ebook), sách 3D, các phim tài liệu, phim chuyên đề và hệ thống thư viện số.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hệ thống chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số còn ít và chưa đồng bộ, chưa phù hợp với đặc thù vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội. Việc tổ chức thực hiện chính sách còn chậm, chưa thực sự đi vào cuộc sống...

Nguồn lực đầu tư hỗ trợ bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số còn hạn chế, sử dụng thiếu hiệu quả. Nhận thức một bộ phận không nhỏ các ngành, các cấp về văn hóa dân tộc thiểu số còn hạn chế. Chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng nên chưa phát huy được hiệu quả tài năng, tâm huyết của đội ngũ trí thức, nghệ nhân dân gian dân tộc thiểu số. Chính sách bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc theo các lĩnh vực cụ thể, chính sách tái tạo môi trường, khôi phục cảnh quan, không gian sinh tồn của đồng bào dân tộc thiểu số chưa được quan tâm định hướng và thể hiện một cách rõ ràng.

Đào tạo tri thức, nguồn lực con người các dân tộc thiểu số

Thực hiện Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 22/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xác định: phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao cho các vùng dân tộc và miền núi là một trong ba khâu đột phá chiến lược vừa mang tính cấp bách vừa cho lâu dài, trọng tâm là đổi mới cơ bản công tác giáo dục và đào tạo, dạy nghề cho vùng nhằm đẩy mạnh và tạo chuyển biến rõ nét về giáo dục đào tạo; nâng cao dân trí, trình độ tay nghề, từng bước hình thành đội ngũ lao động lành nghề đáp ứng yêu cầu cầu sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội trong vùng và sự nghiệp đổi mới đất nước.

Để làm tốt các nội dung trên, cần thực hiện một số giải pháp sau: nâng cao trình độ học vấn phổ thông; nâng cao chất lượng đào tạo nghề, kỹ thuật; tăng cường đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực có chất lượng; tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục các cấp cho vùng DTTS, miền núi; thực hiện chế độ chính sách cho đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh, sinh viên.

Đình Thành và nhóm PV, BTV