Khu dự trữ sinh quyển (KDTSQ) là khái niệm được UNESCO đưa ra năm 1971 nhằm công nhận và thiết lập các khu vực rộng lớn có cảnh quan thiên nhiên, giá trị đa dạng sinh học, văn hóa cao bao gồm trong đó các hệ sinh thái quan trọng trên cạn, vùng đất ngập nước, biển, ven biển... KDTSQ là “nơi học tập để phát triển bền vững”, nơi thử nghiệm các phương pháp tiếp cận liên ngành để tìm hiểu và quản lý những thay đổi cũng như các tương tác giữa các hệ thống sinh thái và xã hội, bao gồm việc ngăn ngừa xung đột trong công tác quản lý đa dạng sinh học. Đây là một mô hình về sự chung sống hài hòa giữa con người và thiên nhiên, trong đó việc bảo tồn thiên nhiên đi đôi với phát triển đời sống kinh tế xã hội bền vững cho cộng đồng địa phương.
Nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế về KDTSQ, ngày 3/11/2023, Ủy ban Quốc gia Chương trình Con người và Sinh quyển Việt Nam (MAB Việt Nam) và Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, Bộ Tài nguyên & Môi trường, với sự hỗ trợ của UNDP Việt Nam, tổ chức Hội nghị thường niên Mạng lưới các KDTSQ thế giới của Việt Nam và Hội thảo khoa học về “Phát huy giá trị các KDTSQ thế giới của Việt Nam phục vụ phát triển bền vững”.
Việt Nam hiện có 11 KDTSQ. Kết cấu sinh thái của các KDTSQ này là điều kiện không thể thiếu đối với cuộc sống của không chỉ hàng triệu người dân Việt Nam mà còn của vô số các loài động thực vật đặc hữu. Việc thúc đẩy vai trò và giá trị của chúng trong việc điều hòa khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học và sự chung sống hài hòa giữa con người và thiên nhiên có tầm quan trọng đặc biệt trong việc hoạch định chính sách quốc gia.
Tại hội nghị, bà Hoàng Thị Thanh Nhàn – Phó Cục trưởng, Cục Bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, chia sẻ rằng việc quản lý hiệu quả các KDTSQ thế giới đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững, thông qua việc thúc đẩy các sáng kiến mới để phát triển kinh tế, đồng thời đảm bảo tính bền vững về mặt xã hội, văn hóa và môi trường. Đã có rất nhiều sáng kiến, mô hình và các thành công trong việc bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên được triển khai và nhân rộng trên khắp các KDTSQ thế giới tại Việt Nam. Mạng lưới các KDTSQ thế giới của Việt Nam đã và đang đóng góp tích cực vào việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam.
Hội nghị thường niên Mạng lưới các KDTSQ thế giới của Việt Nam là dịp để 11 KDTSQ thế giới của Việt Nam (bao gồm: KDTSQTG Rừng ngập mặn Cần Giờ, KDTSQTG Đồng Nai, KDTSQTG Quần đảo Cát Bà, KDTSQTG châu thổ sông Hồng, KDTSQTG Miền Tây Nghệ An, KDTSQTG Kiên Giang, KDTSQTG Cù Lao Chàm – Hội An, KDTSQTG Mũi Cà Mau, KDTSQTG Langbiang, KDTSQTG Núi Chúa và KDTSQTG Cao nguyên Kon Hà Nừng) nhìn lại một năm hoạt động, rút ra những bài học kinh nghiệm cũng như cùng nhau định hướng hoạt động cho giai đoạn tiếp theo. Trong những năm tới, Mạng lưới các KDTSQ thế giới của Việt Nam định hướng xây dựng khung cơ cấu quản lý thống nhất, phát triển nhãn sinh thái KDTSQ thế giới, thúc đẩy du lịch sinh thái, kinh tế xanh và phát triển sinh kế cho người dân địa phương nhằm góp phần giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thông tin từ UNDP cho biết, quản lý bền vững các KDTSQ thế giới ở Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm đáng kể từ các bên liên quan, trong đó có UNDP và Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF). Trọng tâm của các hỗ trợ này là thúc đẩy khả năng phục hồi môi trường và hỗ trợ sinh kế địa phương trước những thách thức ngày càng gia tăng do biến đổi khí hậu.
Dự án "Lồng ghép quản lý tài nguyên thiên nhiên và các mục tiêu về bảo tồn đa dạng sinh học vào quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và quản lý các khu dự trữ sinh quyển ở Việt Nam " triển khai từ 2019 – 2024 (Dự án BR), do Bộ Tài nguyên & Môi trường và UNDP thực hiện, nhằm thúc đẩy việc quản lý tổng hợp các KDTSQ thế giới, cụ thể là ở các KDTSQTG Miền Tây Nghệ An, Cù Lao Chàm-Hội An và Đồng Nai, đồng thời ưu tiên phục hồi 4.000 ha rừng bị suy thoái và quản lý bền vững 60.000 ha các khu vực dành riêng là các khu vực nằm ngoài Khu bảo tồn, có giá trị cao về đa dạng sinh học. Đáng chú ý, dự án trực tiếp hỗ trợ để cải thiện sinh kế cho 2.500 hộ gia đình địa phương, đặc biệt chú trọng sự tham gia của phụ nữ, chiếm 40% số người hưởng lợi, vào các hoạt động của dự án.