- Một ngày mùa hè 1963, ông Nguyễn Đức Phương, Chủ nhiệm hậu cần của Sư đoàn 308, nhận nhiệm vụ từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp: chỉ huy đoàn công tác 763 (thành lập tháng 7 năm 1963), gồm 30 người vào vùng ngã ba biên giới ở Bắc Kontum, liên lạc với tỉnh ủy Attapeu của Lào để tạo nguồn hàng dự trữ, cung cấp cho các đoàn quân giải phóng tiến vào Miền Nam.
Mở đường khó khăn
Di ảnh ông chủ lớn Đức Phương |
Thóc gạo vùng Attapeu có hạn, để có thêm nhiều lương thực phải vươn đến khu vực
đồng bằng Champasac, ven sông Mekong, nhưng đây lại là vùng đất do phải hữu Lào
kiểm soát. Trong vai những người buôn vùng Phathet kiểm soát, những cán bộ nằm
vùng lâu năm, thông thạo tiếng Lào đã giúp Đoàn 763 đi vào thị trấn Pakse, giáp
ranh giữa Lào, Thailan và Campuchia tiếp xúc với vợ của Khăm Lượm, Quân khu phó,
đồng thời là em gái Hoàng thân Bun Ùm, nhân vật thế lực lớn nhất Hạ Lào, bàn
tính chuyện thu mua thóc gạo. Việc “buôn bán” diễn ra khá thuận lợi, nhưng do đề
phòng địch thăm dò lực lượng của ta nên phải dừng.
Tuyến hàng chiến lược cho Tây Nguyên
Trước tình hình đó, ông Đức Phương liền xin cấp trên cho mở hướng thu mua sang
Campuchia, đến đầu năm 1964 được chấp thuận. Đơn vị mới được thành lập có mật
danh Ấp 97 (sau đổi thành K20). Hàng mua được chở về lấy bí danh là tuyến đường
C4.
Để thực hiện nhiệm vụ, ông Đức Phương quyết định đóng quân ở khu rừng giáp biên
giới Việt - Lào - Campuchia, cách đồn Đôn Phầy (Campuchia) 3km. Để làm quen, ông
Đức Phương mở bữa nhậu với đồn trưởng Sun. Qua bữa rượu ta đã nắm bắt được tâm
tư bất mãn của viên đồn trưởng phải chịu cảnh rừng thiêng nước độc lại không có
thu nhập gì thêm. Sau đó cán bộ, chiến sĩ K20 trổ tài đóng tặng ông ta con
thuyền lớn, rồi nhờ các đồng chí Pathet Lào mua sản vật rừng bán chịu cho Sun,
xui Sun cho hai lính giỏi sông nước, đưa hàng về Phnom Penh bán, lấy tiền mua
máy nổ gắn vào thuyền và kéo theo hai thuyền buôn mang hàng chạy ngược lên Đôn
Phầy.
Chuyến đi thắng lợi, mang đến cho đồn trưởng Sun khoản khá nhưng cả sếp và quân
không biết rằng họ đang thực hiện cú thử nghiệm mở đường của ông chủ Đức Phương.
Sau chuyến đi ông kết luận “Có thể dùng đường thủy để vận chuyển hàng lên Đông
bắc Campuchia, Hạ Lào”.
Tuyến vận tải được mở, Đại úy Kim Sinh, cán bộ Đoàn 17 của, Cục Hậu cần B2,
người sắm vai ông chủ của của Công ty Quách An ở Campuchia, được lệnh đưa đoàn
tư sản Hoa kiều từ Phnom Penh lên thảo luận việc buôn bán.
Từ đây, Trung tá Nguyễn Đức Phương, Đoàn trưởng Đoàn 763 trong vai ông chủ lớn
chuyên thầu hàng cho Pathet Lào với lý lịch: bố mẹ người Việt sang sinh sống ở
Sầm Nưa, đã có vợ hiện cũng là chủ hiệu buôn ở Sầm Nưa, cũng là người Việt sống
ở Lào đã lâu. Cách mua bán cũng thật chặt chẽ, phía thương nhân người Hoa mang
theo gạo mẫu, sau khi được đồng ý, sẽ cho gạo vào hai lọ thủy tinh, cùng ký tên
vào tờ giấy niêm phong, mỗi bên giữ một lọ. Sau này căn cứ vào mẫu gạo trong lọ
để nhân hàng, bên mua, bên bán không có quyền bắt bí nhau, còn tiền được thanh
toán qua công ty Quách An với vai trò môi giới.
Hàng của các thương nhân từ Stueng Treng, Kratie, Phnom Penh ùn ùn kéo về Đôn
Phầy bán cho “Ông chủ lớn”, thấy làm ăn được một số quan chức của Campuchia cũng
tổ chức mang hàng lên bán.
Tuy vậy, thác Măng Dẻ dài hơn 2km, thác Chabun cao hơn 2 mét trên sông Sekong đã
ngăn cản, không thể vận chuyển được nhiều. Để nâng lượng thu mua lên hàng ngàn,
hạng vạn tấn, “ông chủ’ Đức Phương quyết định mở đường ô tô nối Siem Pang lên
Đôn Phầy.
Để tiến hành công việc Trung tá Đức Phương kết nối với nhà quan quan huyện Xiêng
Pạng. Ông chủ lớn Đức Phương hứa sẽ cho cu-li của mình (thực chất là Trung đoàn
công binh 98) sang Xiêng Pạng làm giúp con đường, không nhận một xu thù lao nào.
Thấy có món lời lớn, vì có quyền bỏ túi toàn bộ kinh phí làm đường, quan huyện
chấp thuận. Các chiến sĩ Trung đoàn 98 công binh nhanh chóng hoàn thành con
đường con đường 60km cho ô tô chạy Lần đầu tiên, C4 nhận được ngót 40 tấn hàng
trong một ngày. Gạo dự trữ tăng vùn vụt, từ 100 tấn lên 2.000 rồi 3.000 tấn...
Từ đây nhiệm vụ Trung đoàn Công binh 98 thay đổi: một tiểu đoàn làm nhiệm vụ bốc
vác, một tiểu đoàn xây dựng, bảo vệ kho và một tiểu đoàn làm đường, vận chuyển
hàng về tuyến sau.
Nói về nguồn hàng C4, Đại tá Đặng Văn Khoát, nguyên Cục phó Cục Hậu cần Tây
Nguyên: “Nhờ anh Đức Phương mà khoảng 4 vạn cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận Tây
Nguyên chúng tôi đã sống và chiến đấu được trong gần 7 năm! Anh Đức Phương cung
cấp cho chúng tôi từ lương thực, thực phẩm đến thuốc chữa bệnh, văn phòng phẩm,
dao, cuốc v.v...”. Sau khi mặt trận Tây Nguyên được thành lập, đường chi viện từ
Hà Nội vào bị máy bay Mỹ đánh phá dữ dội, thì tuyến đường C4 đã kịp thời, thay
thế bảo đảm bộ đội đỡ khó khăn, đủ sức chiến đấu, giành chiến thắng.
Nam Khánh