Cơn địa chấn Hungary
Tháng 2/1956, Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô ra nghị quyết lên án tệ sùng bái cá nhân Stalin. Báo cáo của Nikita Khrushov tại Đại hội gây chấn động không chỉ trong nước mà còn làm xáo trộn nhiều đảng cộng sản ở nước ngoài. Tại Hungary, Đảng Lao động cầm quyền nhận thức được sự phức tạp của tình hình, nhưng không ai biết cần hành động như thế nào.
Trong khi đó, sự kích động từ bên ngoài, những biện pháp cải cách nửa vời trong nước, nhất là việc các nhà lãnh đạo Hungary cho phép minh oan cho chính trị gia Laslo Raska (bị xử bắn trong giai đoạn 1949-1953)... đã đẩy đất nước vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Cuộc biểu tình tại Hungary năm 1956 |
Ngày 23/10, cuộc biểu tình với sự tham gia của 250.000 người đã diễn ra. Người biểu tình đòi bầu cử tự do, quân đội Liên Xô rút về nước và đưa Imre Nagy trở lại cầm quyền.
Sáng 24/10, chính quyền Budapest hầu như không còn kiểm soát được tình hình. Khắp nơi trong thành phố xảy ra các vụ cướp phá, các phương tiện giao thông công cộng không thể hoạt động, nhiều nơi vang lên tiếng súng. Đa phần học sinh, sinh viên bị cuốn hút vào các hoạt động gây rối. Chính quyền rơi vào tay Nagy, kẻ ngoài miệng ủng hộ quan hệ với Liên Xô, nhưng lại tích cực chuẩn bị các hành động bài Xô và khôi phục chủ nghĩa tư bản.
Trong khi đó, Moscow hầu như tê liệt vì phân vân giữa sử dụng sức mạnh quân sự hay rút quân khỏi Hungary. Chỉ riêng Uỷ ban An ninh quốc gia (KGB) vẫn tỉnh táo, nhạy bén. Đích thân Chủ tịch KGB Ivan Serov bay tới Budapest để điều hành mọi việc. Ngay tối hôm đó diễn ra hội nghị khẩn cấp của lãnh đạo Bộ Nội vụ Hungary với sự có mặt của Serov. Để đề phòng mọi bất trắc có thể, Serov ra lệnh cho khoảng 20 cán bộ tình báo hàng đầu đang hoạt động ở các nước phương Tây bí mật rút về Budapest.
Ngày 29/10, cơ quan an ninh Hungary bị giải thể, một số cán bộ bị đám đông quá khích giết hại. Ngày 30/10, các phái viên Liên Xô đồng ý rút quân. Tuy nhiên, ngay khi người lính Hồng quân cuối cùng ra đi, bạo lực và cướp bóc lại hoành hành ngay trên đường phố. Những người cộng sản, cán bộ an ninh Hungary bị treo cổ ngay trên các cột điện với tấm biển đeo trên ngực: “Gián điệp của Moscow”. Để cứu vãn tình hình chỉ còn cách đưa quân đội Liên Xô trở lại.
Đại sứ Liên Xô tại Hungary Iury Andropov đã ru ngủ, đánh lạc hướng Nagy. Ngày 1/11, Nagy được thông báo các đơn vị Liên Xô đang rút khỏi Hungary, nhưng cũng có các đơn vị hành quân theo hướng ngược lại. Andropov giải thích cho Nagy rằng, các đơn vị được đưa vào để đảm bảo an toàn cho bộ đội Liên Xô đang rút đi.
Như được cởi tấm lòng, Nagy công khai tuyên bố Hungary rút khỏi Tổ chức Hiệp ước Warszawa, tuyên bố sự trung lập của Hungary và kêu gọi Liên Hợp Quốc đưa vấn đề Hungary vào chương trình nghị sự. Ngày 2/11, Nagy phản đối Liên Xô đưa quân trở lại Hungary.
Chiều 3/11, Bộ trưởng Quốc phòng trong Chính phủ Nagy được mời đến Bộ Tham mưu các đơn vị Liên Xô để thảo luận “các chi tiết cuối cùng” của chiến dịch rút quân. Hội nghị kết thúc bằng tiệc rượu. Nửa đêm, khi những lời chúc và tiếng những chiếc cốc chạm nhau lần cuối vang lên, cửa phòng bật mở. Một nhóm sĩ quan KGB lao vào. Toàn bộ đoàn Hungary bị bắt giữ. Mờ sáng 4/11, các đơn vị Hồng quân bắt đầu tiến công.
Khi Tư lệnh các lực lượng Hungary báo cáo tình hình, Nagy đáp lại: “Chắc đã xảy ra một sự hiểu lầm nào đó”. Đến khi nhận ra không phải là “hiểu lầm”, Nagy phát biểu lần cuối trên đài phát thanh và khẳng định “chính phủ vẫn ở lại”, song ông ta cùng một số bộ trưởng thân cận lại chạy vào ẩn náu tại Đại sứ quán Nam Tư. Ngày 22/11, nhóm Nagy rời sứ quán và ngay lập tức bị các sĩ quan KGB bắt giữ và đưa qua biên giới sang Rumani.
Mấy tháng sau, họ được đưa trở về Hungary và giao cho chính quyền mới. Phiên toà xét xử Nagy và đồng sự kéo dài từ tháng 2 đến tháng 6 năm 1958. Nagy và 2 người khác bị buộc tội phản cách mạng và bị kết án tử hình.
Đến giữa tháng 11/1956, tình hình được ổn định. Đảng Lao động Hungary bị giải tán, Đảng Công nhân XHCN Hungary được thành lập với Yanosh Kadar đứng đầu. Đất nước Hungary XHCN bước vào giai đoạn ổn định, phát triển suốt 35 năm cho đến cuối những năm 1980.
Đêm trước của chiến tranh hạt nhân
Sau Thế chiến 2, Đông Berlin do Liên Xô kiểm soát, còn Tây Berlin do phương Tây chi phối. Năm 1948, Liên Xô phong toả Berlin, cắt đứt đường vận chuyển vật tư, nhu yếu phẩm và mọi liên hệ giữa Berlin với phương Tây. Việc buộc phải chấp nhận ưu thế của Liên Xô tại Berlin bị Mỹ coi là yếu tố “huỷ hoại uy tín Mỹ”. Bởi vậy, sau khi đắc cử tổng thống, John Kennedy quyết định chọn Berlin là nơi “thử thách tinh thần và ý chí” của Mỹ.
Đầu năm 1961, nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushov đòi phương Tây cắt đứt mọi quan hệ với Tây Berlin, nếu không Liên Xô “sẽ phải áp dụng biện pháp kiên quyết”. Lời tuyên bố này thực sự là một đòn cân não đối với vị tổng thống trẻ tuổi của nước Mỹ và là chất xúc tác để ông này giao Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara lập kế hoạch chi tiết về khả năng triển khai quân Mỹ tại Berlin trong trường hợp nổ ra khủng hoảng.
Ngày 5/5, McNamara báo cáo rằng quân đội Mỹ và NATO, nếu chỉ dựa vào lực lượng vũ trang thông thường thì không bảo vệ nổi Berlin. Tháng 6, tại Hội nghị Thượng đỉnh Xô - Mỹ ở Vienna (Áo), cách ứng xử kiểu bề trên của Khrushov đã làm cho hội nghị dự kiến bàn vấn đề Tây Berlin đi vào ngõ cụt. Kennedy cay cú rời hội nghị, còn quan hệ Xô - Mỹ trở nên băng giá.
Bức tường Berlin được xây dựng |
Trở về Washington, Kennedy được các cố vấn khuyến cáo nâng cấp khả năng lực lượng thông thường tại Tây Đức, sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân hạn chế đối với Moscow, song phải tránh được sự đối đầu hạt nhân quy mô lớn và tránh thảm họa cho nước Mỹ. Tuy nhiên, vấn đề làm Kennedy đau đầu là nếu quân Liên Xô tiến vào Tây Âu, quân Mỹ không thể tự vệ bằng vũ khí thông thường, thì làm thế nào tiến hành thành công một cuộc tiến công hạt nhân mà vẫn tránh được đòn trả đũa của đối phương?
Đúng lúc đó, Cahayman – chuyên gia hạt nhân chiến lược kiêm cố vấn Lầu Năm góc đưa ra khả năng phát động cuộc tiến công hạt nhân vào các đơn vị Liên Xô đóng tại châu Âu, và nếu Liên Xô không rút lui, Mỹ sẽ thực hiện đòn huỷ diệt hạt nhân đối với các thành phố lớn của Liên Xô. Theo Cahayman, thực lực vũ khí hạt nhân của Liên Xô không mạnh, Mỹ chỉ cần mở một cuộc tiến công hạt nhân quy mô nhỏ cũng đủ phá huỷ cả kho vũ khí hạt nhân của Liên Xô. Các cố vấn chủ chốt của Kennedy đều đồng ý với phương án này.
Ngày 13/7, Kennedy triệu tập Hội đồng An ninh quốc gia bàn các bước chuẩn bị cho việc sử dụng vũ khí hạt nhân trong “một cuộc chiến không phân tuyến ở Trung Âu và Liên Xô”. Ngày 25/7, Kennedy phát biểu trên truyền hình, thông báo rất có thể sẽ xảy ra một “cuộc khủng hoảng Berlin giữa Mỹ và Liên Xô”, đồng thời tuyên bố tăng ngân sách quốc phòng và yêu cầu Bộ Quốc phòng xây dựng các công trình phòng chống phóng xạ.
Trong khi người Mỹ còn đang họp thì Liên Xô đã có câu trả lời bằng một hành động gây chấn động thế giới. Ngày 13/8, các đơn vị công binh Liên Xô và CHDC Đức sử dụng hàng trăm xe chuyên dụng tiến hành xây dựng Bức tường Berlin, ngăn cách nước Đức thành 2 phần rõ rệt. Đáp lại, ngày 5/9, nhóm Cahayman cho ra đời kế hoạch mang mã số SIOP-62, theo đó, trong tình huống cần thiết, toàn bộ kho vũ khí hạt nhân của Mỹ sẽ được ném xuống 1.077 mục tiêu quan trọng của Liên Xô.
Các tác giả của kế hoạch đánh giá, nếu “SIOP-62” được thực hiện, 54% dân số cùng 82% công trình lớn của Liên Xô sẽ bị xoá sổ. Trong đợt tiến công đầu tiên, dự kiến chỉ sử dụng 55 máy bay ném bom tầm xa đồng loạt công kích 80 mục tiêu bị nghi là các cơ sở hạt nhân.
Nhận được kế hoạch, Kennedy yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Taylor cùng Tư lệnh Không quân Paoen làm rõ, trong tình huống khủng hoảng, liệu quân Mỹ có thể giành được thế chủ động khi chuyển sang một cuộc chiến tranh toàn diện; còn khi thực hiện kế hoạch SIOP-62, liệu có khả thi và đem lại hiệu quả đến mức nào. Điều này chứng tỏ Kennedy đã có chính kiến riêng và rất thận trọng trong mọi quyết định.
Thế nhưng, trong cuộc họp sau đó, mọi người lại chỉ thiên về việc cảnh báo Kennedy trước một cuộc tiến công bất ngờ từ phía Liên Xô và rằng nếu không tránh được một cuộc chiến tranh toàn diện, thì Mỹ phải ra tay trước. Trong khi đó, vấn đề Kennedy quan tâm là liệu có tránh được đòn đánh trả mang tính huỷ diệt từ phía Liên Xô, và phía Liên Xô cần mất bao nhiêu thời gian để tính toán việc phóng tên lửa vào nước Mỹ... thì không ai đề cập đến.
Chính vì vậy ngày 10/10, Kennedy lại triệu tập một hội nghị để thảo luận giải pháp cho “khủng hoảng Berlin”. Kennedy vẫn chủ trương sử dụng vũ khí hạt nhân hạn chế để tiến công Liên Xô và tránh leo thang thành cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện. Tuy nhiên, vị tổng thống trẻ tuổi rốt cuộc đã bị thuyết phục rằng nếu Mỹ tập kích hạt nhân bất ngờ, Liên Xô sẽ bị rơi vào thế bị động; rằng nếu để đối phương ra đòn trước, Mỹ sẽ thua. Kết luận cuối cùng của hội nghị là cần áp dụng biện pháp ra đòn trước; tiến công hạt nhân có giới hạn là cách lựa chọn tốt nhất để Mỹ kiềm chế Liên Xô.
Ngày 15/10, Kennedy quyết định đưa ra tín hiệu cảnh cáo Khrushov. Theo lệnh của Kennedy, ngày 21/10, Thứ trưởng Quốc phòng Critery tuyên bố nếu Liên Xô phát động cuộc chiến tranh hạt nhân thì Mỹ có đầy đủ khả năng trả đũa một cách đích đáng. Tình hình càng thêm căng thẳng khi ngày 28/10, lính gác CHDC Đức chặn xe hơi của một quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao Mỹ sang Đông Berlin xem biểu diễn nghệ thuật. Hai bên Đông và Tây Đức đã huy động đến 30 xe tăng dàn hàng ngang suốt 16 tiếng đồng hồ.
Cũng như cuộc khủng hoảng Cuba 1 năm sau đó, cuộc khủng hoảng Berlin được đưa lên đến đỉnh điểm căng thẳng rồi được giải toả một cách đầy bất ngờ. Ngày 17/11, Khrushov và Kennedy bí mật gặp nhau tại Vienna (Áo), cùng chấp nhận sự tồn tại của Bức tường Berlin, thoả thuận kết thúc cuộc khủng hoảng vì hai bên đã quá mệt mỏi sau những trò đùa nguy hiểm. Thế giới tránh được một thảm hoạ khôn lường do kế hoạch SIOP-62 của Mỹ không có cơ hội được thực hiện.
Tuy nhiên, khủng hoảng Berlin đã để lại 2 “di sản” lớn. Thứ nhất, chính nó đã trực tiếp gây ra cuộc khủng hoảng Cuba vì Khrushov nhận thấy, nếu Liên Xô muốn gia tăng áp lực ở Berlin một lần nữa thì cần có biện pháp răn đe Mỹ, đó là bố trí tên lửa hạt nhân tại Cuba. Thứ hai, việc các cố vấn của Tổng thống Mỹ sửa đổi các biến số trong chiến lược hạt nhân đã tạo cho Tổng thống Mỹ một tiền lệ nguy hiểm là có quyền đưa ra các “lựa chọn linh hoạt” trong việc đối phó với các cuộc khủng hoảng hạt nhân.
Còn Bức tường Berlin thì cứ thế tồn tại suốt 28 năm cho đến ngày bị đập phá vào ngày 12/11/1989.
(Còn tiếp)
Nguyên Phong