Vinfast Lux A2.0 và Lux SA 2.0

Ngày 15/7, hãng xe Vinfast chính thức công bố dừng bán hai mẫu sedan và SUV là Lux A2.0 và Lux SA 2.0. Nguyên nhân là để chuyển đổi hoàn toàn sang sản xuất và kinh doanh xe điện theo kế hoạch công bố trước đó.

Như vậy, hai mẫu xe của Vinfast chỉ có khoảng 3,5 năm tồn tại trên thị trường kể từ khi được bán chính thức vào cuối năm 2018. Năm 2019 kết thúc dù không công bố lượng bán cụ thể nhưng con số gộp của cả 3 mẫu xe Lux A2.0, Lux SA 2.0 và Fadil là 17.214 chiếc, tương đương trung bình trên 5.000 xe chia đều cho mỗi mẫu xe.

Lux A2.0 và Lux SA 2.0 là 2 trong 3 mẫu xe ô tô mới của hãng Vinfast thời kỳ đầu ra mắt.

Năm 2021 và 2021, cả hai mẫu xe Vinfast đều tăng trưởng doanh số và từng lọt Top 10 xe bán chạy theo tháng. Cộng dồn đến nay, mẫu sedan Vinfast Lux A2.0 đã bán gần 20 ngàn xe, và mẫu SUV Lux SA 2.0 bán được khoảng 17 ngàn xe. Một con số không hề thua kém so với những đối thủ đến từ Nhật hay Hàn quốc.

Sự tăng trưởng doanh số của Lux A2.0 và Lux SA 2.0 trong 3,5 năm phần nhiều đến từ chính sách bán hàng khá đặc biệt của Vinfast. Thời điểm đầu ra mắt, VinFast Lux A 2.0 định giá 1,366 tỷ đồng và 1,818 tỷ đồng với mẫu Lux SA 2.0. Hãng xe Việt chọn đặt 2 mẫu xe này vào nhóm phân khúc xe sang, cạnh tranh trực tiếp Mercedes-Benz E-Class, GLC-Class, BMW 5-Series hay BMW X5 thay vì nhóm xe phổ thông Toyota Camry, Fortuner.

Một thời gian ngắn sau ra mắt, Vinfast liên tục có các đợt giảm giá khiến thị trường xôn xao. Năm 2019, khách mua xe sớm nhận được giá 1,136 tỷ đồng với Lux SA 2.0; 800 triệu đồng với Lux A 2.0. Sang năm 2020, có thời điểm xe giảm giá 500-600 triệu đồng, tương đương Lux A2.0 giá gần 800 triệu đồng, Lux SA 2.0 còn khoảng 1 tỷ đồng. Chính sách giá giảm vẫn tiếp tục vào năm 2021 và mới nhất là các đợt ưu đãi voucher trong năm 2022 khiến giá xe Lux A2.0 chỉ còn khoảng 600 triệu đồng, bằng một chiếc sedan cỡ B, còn Lux SA2.0 là khoảng 800 triệu đồng, bằng một chiếc SUV cỡ C phổ thông.

Hyundai Kona

Chiếc SUV cỡ B của Hyundai chính thức khép lại quá trình khoảng 3,5 năm tồn tại để thay thế bằng sản phẩm Hyundai Creta hồi tháng 3 năm nay. Chính thức ra mắt khách Việt vào tháng 8/20218, với 3 phiên bản động cơ, trang bị với giá bán từ 615 triệu đồng, Hyundai Kona mở màn cho cuộc đua SUV cỡ B ngày càng “nóng”. 

Hyundai Kona

Kết thúc năm 2019, Hyundai Kona bán được 7.103 xe, dù thấp nhất trong nhóm xe Hyundai ở Việt Nam nhưng đứng đầu phân khúc. Năm 2020, Hyundai Kona tiếp tục là mẫu SUV cỡ B ăn khách nhất với doanh số 7.863 xe. Nhưng đến năm 2021, Kona dần bị yếu thế trước các đối thủ mới như Toyota Corolla Cross và Kia Seltos và chỉ đạt doanh số 5.068 xe. Trước khi được tuyên bố thay thế bởi Creta, doanh số Hyundai Kona chỉ đạt hơn 500 xe/tháng gây thất vọng cho mẫu xe từng đặt nhiều kỳ vọng.

Thực tế so với mẫu xe thay thế là Creta, Hyundai Kona có nhiều ưu điểm hơn, điển hình là động cơ khỏe cùng hộp số linh hoạt. Hãng xe Hàn quốc đưa đến 2 lựa chọn động cơ gồm Atkinson MPI 2.0L và Gamma 1.6T-GDI với công nghệ tăng áp, mạnh hơn mẫu Creta từ 34 đến 62 mã lực. Tất cả các phiên bản đều được trang bị hệ thống Drive Mode với 3 chế độ Comfort - Eco – Sport.

Nhược điểm lớn nhất của Hyundai Kona là không gian bên trong nhỏ do thiết kế thiên về dáng thể thao, gầm xe thấp cũng khiến công năng SUV cỡ B không hẳn đúng như tên gọi. 

Toyota Rush

Ra mắt lần đầu tháng 9/2018 cùng Avanza và Wigo, Rush là một trong 3 mẫu xe nhập khẩu cỡ nhỏ được Toyota Việt Nam kỳ vọng làm nên đột phá doanh số ở phân khúc xe cỡ A,B và mini MPV giá rẻ.

Chỉ trang bị động cơ 1.5L tiết kiệm nhiên liệu và thiết kế cao rao, được ví von như “tiểu Fortuner”, tuy nhiên Toyota Rush và 2 mẫu xe anh em Avanza, Wigo liên tục nằm trong nhóm “xe ế” nhiều năm. Doanh số không như kỳ vọng bất chấp nhiều đợt giảm giá, khuyến mại diễn ra hàng năm. Năm 2018, Toyota Rush bán được 765 xe chỉ trong 4 tháng, sang năm 2019 tăng lên 2.975 xe, và đạt đỉnh 4.241 xe năm 2020 nhưng bắt đầu giảm còn 3.663 năm 2021 và 6 tháng năm 2022 chỉ đạt 464 xe.

Toyota Rush

Hiện tại Toyota Rush đã dần biến mất khỏi báo cáo bán hàng Toyota Việt Nam từ tháng 3/2022 và “âm thầm” biến mất khỏi trang web từ tháng 5, được xem như một động thái “khai tử” không thông báo.

Bên cạnh giá bán 668 triệu đồng bị cho là đắt hơn các đối thủ thì Toyota Rush bị chê ở các trang bị không tương xứng số tiền khách hàng phải bỏ ra. Nội thất trong xe nghèo nàn khi ghế chỉ được bọc nỉ, thiết kế các chi tiết già tuổi, cách âm kém, xe cao nhưng thiếu tựa tay hàng ghế trước. So với các đối thủ ra mắt sau như Suzuki XL7, Mitsubishi Xpander Cross thẩm mỹ cùng nhiều trang bị phù hợp hơn, Toyota Rush dần yếu thế và buộc phải từ bỏ cuộc chơi.

Honda Jazz

Honda Jazz là dòng xe hatchback cỡ B vừa được phân phối chính thức tại Việt Nam từ cuối tháng 3/2018, với mức giá từ 544 - 629 triệu đồng, cạnh tranh cùng Mazda 2, Toyota Yaris, Suzuki Swift. Honda Jazz chỉ tồn tại chưa đầy 3 năm khi mất hút trong báo cáo bán hàng của VAMA từ tháng 7/2020 và dần bị gỡ bỏ khỏi trang web Honda Việt Nam. 

Honda Jazz

Honda Jazz nhập khẩu nguyên chiếc từ Thái Lan, tương tự Toyota Yaris, thậm chí được đánh giá cao hơn khi có nội thất rộng rãi và linh hoạt nhất phân khúc, nhưng doanh số bán của Jazz không đạt được như kỳ vọng. Năm 2018, có 2.424 xe Honda Jazz đến tay khách Việt, con số này 1 năm sau đó tụt xuống còn 1.183 xe và cẳnm 2020 chỉ có 83 xe.

Sau một năm bán ra, mẫu xe này đã phải bỏ đi bản tiêu chuẩn giá 539 triệu đồng do quá ế, dẫn đến chỉ còn 2 phiên bản 589 triệu và 619 triệu đồng.

Dù doanh số bán giảm dần đều, nhưng Honda Jazz lại được đánh giá cao về khả năng vận hành. Xe trang bị động cơ 4 xy-lanh, dung tích 1.5L, cho công suất 118 mã lực tại 6.600 vòng/phút và mô-men xoắn 145 Nm tại 4.600 vòng/phút. Hộp số tự động vô cấp CVT và hệ dẫn động cầu trước. Nội thất xe trẻ và nhiều trang bị hiện đại so với xe cùng phân khúc. Nhược điểm của xe là giá bán đắt, ghế vẫn là loại nỉ dù có cơ chế chỉnh xoay thông minh.

Suzuki Celerio

Suzuki Celerio là mẫu xe cỡ A đầu tiên được Suzuki Việt Nam chính thức bán từ đầu năm 2018 với phiên bản 1.0CVT, giá 350 triệu đồng, cạnh tranh trực tiếp Kia Morning, Hyundai Grand i10. Tuy nhiên, đến tháng 5/2020, Suzuki Việt Nam chính thức công bố khai tử dòng xe này, chấm dứt 2,5 năm tồn tại ngắn ngủi.

Xét về yếu tố tiết kiệm, Suzuki Celerio được đánh giá cao khi trang bị động cơ xăng 1.0L cho công suất 68 mã lực, mô-men xoắn 100 Nm, đi kèm hộp số vô cấp CVT, mức tiêu hao nhiên liệu chỉ 4,8L/100 Km. Tuy nhiên, ngoại hình thô kệch và nội thất tẻ nhạt chính là "rào cản" khiến mẫu xe du lịch giá rẻ nhất của Suzuki đạt doanh số thấp, thường rơi vào Top xe ế.

Dù có giá rẻ nhưng Suzuki Celerio vẫn liên tục "ế ẩm" do thiết kế kiểu cũ, nội thất nghèo nàn.

Khởi đầu năm 2018, chỉ có 633 xe Suzuki Celerio được bán, thấp nhất phân khúc xe cỡ A. Sang năm 2019, doanh số cải thiện lên với 1.756 xe, nhưng rơi xuống còn 301 xe trước và sau khi khai tử trong năm 2020.

Thực tế bên cạnh nguyên nhân thiết kế xấu, nội thất sơ sài thì chính sách chăm sóc khách hàng kèm, cùng giá phụ tùng đắt không đáp ứng được nhu cầu của đối tượng khách hàng chạy xe dịch vụ đã dẫn đến sự "ế ẩm" của Suzuki Celerio. Phải sau năm 2020, các chính sách bán hàng và giá phụ tùng của Suzuki mới được cải thiện, giúp doanh số hãng xe Nhật dần cải thiện, nhưng vẫn chỉ tập trung vào 2 mẫu xe Ertiga và XL7. 

Đình Quý

Bạn có góc nhìn (hoặc có trải nghiệm) nào về vấn đề trên? Hãy chia sẻ bài viết về Ban Ô tô xe máy theo email: [email protected]. Các nội dung phù hợp sẽ được đăng tải. Xin cảm ơn!