Nhiều dự án chậm tiến độ
Báo cáo mới nhất về thực trạng, giải pháp phát triển điện lực đến năm 2030 của Bộ Công Thương đánh giá: Ngành điện, mà nòng cốt là EVN, cùng với các Tổng công ty phát điện của các tập đoàn: Dầu khí Việt Nam, Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam trong thời gian qua đã cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu điện.
Tốc độ tăng trưởng điện sản xuất giai đoạn 2011-2019 là 10,1%/năm, điện thương phẩm giai đoạn 2011-2019 tăng trưởng bình quân 10,5 %/năm, công suất phụ tải lớn nhất toàn hệ thống (Pmax) năm 2019 đạt 38.249 MW.
Cung ứng điện năng trong 10 năm qua được đảm bảo. Ảnh: Lương Bằng |
Tốc độ tăng trưởng bình quân của nguồn điện giai đoạn 2011-2015 đạt 13%/ năm, trong đó tăng trưởng lớn nhất là nguồn nhiệt điện than (bình quân 27%/ năm), tiếp đến là thủy điện với mức tăng bình quân 15%/năm; năng lượng tái tạo cũng tăng với mức 37%/ năm nhưng do công suất đặt nhỏ nên chỉ chiếm tỷ lệ khiêm tốn (0,2% năm 2015).
Trong giai đoạn 2016-2019, tăng trưởng xây dựng nguồn điện đã sụt giảm đáng kể với bình quân chỉ đạt 8%/năm, trong đó giảm nhiều nhất là thủy điện (chỉ còn bình quân 5%/ năm) và nhiệt điện than (chỉ còn bình quân 10%/ năm).
Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là thủy điện đã khai thác hầu hết tiềm năng kinh tế trong giai đoạn trước; nhiệt điện than gặp nhiều khó khăn trong công tác xây dựng.
Theo Bộ Công Thương, trong giai đoạn này, năng lượng tái tạo có sự bùng nổ về số lượng dự án và công suất đưa vào vận hành.
Trong giai đoạn 2016-2019, việc phát triển năng lượng tái tạo đã có sự bùng nổ mạnh mẽ. Tính tới cuối tháng 8/2020, tổng công suất các nguồn điện từ năng lượng tái tạo của Việt Nam đã đạt gần 6.000 MW, trong đó có gần 5.245 MW điện mặt trời, khoảng 450 MW điện gió và 325 MW công suất điện sinh khối, gần 10 MW điện chất thải rắn và khoảng có trên 47.000 hệ thống điện mặt trời mái nhà được lắp đặt với tổng công suất khoảng 1.000 MW. Tổng công suất của điện năng lượng tái tạo đã chiếm trên 10% tổng công suất đặt của hệ thống điện.
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, để đáp ứng nhu cầu điện cho phát triển kinh tế xã hội, tổng công suất các nguồn điện cần đưa vào vận hành trong 15 năm 2016-2030 là 96.500MW (bình quân 6.430MW/năm).
Tuy nhiên, các dự án nguồn điện, đặc biệt là các dự án ngoài EVN thường bị chậm so với quy hoạch, kế hoạch ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc đảm bảo cung ứng điện trong thời gian tới.
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, giai đoạn 2016-2030 có tổng cộng 116 dự án nguồn điện cần được đầu tư và đưa vào vận hành (chưa bao gồm các dự án năng lượng tái tạo). Song sau 4 năm thực hiện, nhiều dự án đã không được thực hiện như: Quốc hội thông qua chủ trương dừng thực hiện các dự án Điện hạt nhân tại Ninh Thuận (4.600MW); các dự án điện than ở Bạc Liêu, Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Long An, Tiền Giang, trong khi nhiều địa phương khác đề nghị bổ sung các trung tâm điện khí mới như Bạc Liêu, Bà Rịa - Vũng Tàu, Ninh Thuận... Nhiều dự án điện BOT bị chậm tiến độ do thời gian chuẩn bị đầu tư, đàm phán bộ hợp đồng BOT kéo dài (Vân Phong I, Vĩnh Tân III, Nghi Sơn II, Vũng Áng II, Nam Định I,... ).
Điện gió, điện mặt trời trải qua giai đoạn bùng nổ ở Việt Nam. Ảnh: Lương Bằng |
Loạt giải pháp để đủ điện giai đoạn 2021-2030
Theo báo cáo của Bộ Công Thương, giai đoạn 2021-2025, Việt Nam phải đối mặt với nguy cơ thiếu hụt điện năng.
Hiện nay, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhu cầu phụ tải trong giai đoạn tới về cơ bản sẽ thấp hơn so với các kết quả dự báo trước đây.
Theo kết quả dự báo mới nhất do Viện Năng lượng tính toán cho đề án Quy hoạch điện VIII, ở kịch bản cơ sở, nhu cầu điện thương phẩm sẽ duy trì mức tăng khoảng 8% trong giai đoạn 2021-2030 với điện thương phẩm năm 2025 dự kiến đạt khoảng 337,5 tỷ kWh và năm 2030 dự kiến đạt khoảng 478,1 tỷ kWh. Theo đó, điện thương phẩm sẽ giảm 15 tỷ kWh vào năm 2025 và khoảng gần 230 tỷ kWh vào năm 2030 so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh.
Tuy nhiên, do nhiều nguồn điện lớn bị chậm tiến độ, nên vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với công tác cung ứng điện trong giai đoạn 2021-2025. Đây cũng là giai đoạn có sự thay đổi đáng kể về cơ cấu nguồn điện.
Theo dự báo của Bộ Công Thương, dự kiến đến năm 2030, nhiệt điện than đạt khoảng gần 50 ngàn MW chiếm khoảng 33,6% tổng công suất lắp đặt nguồn điện (giảm 9% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh), nhiệt điện khí đạt khoảng 27,8 ngàn MW, chiếm 19% (tăng 4% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh), thủy điện lớn trên 30 MW đạt khoảng 19,2 ngàn MW chiếm 13%, thủy điện nhỏ và năng lượng tái tạo đạt khoảng 38,3 ngàn MW chiếm 27% (cao hơn Quy hoạch điện VII điều chỉnh 6%).
Về cơ cấu điện năng, nhiệt điện than chiếm 42% (thấp hơn Quy hoạch điện VII điều chỉnh 11%), nhiệt điện khí chiếm 27,5% (tăng 10% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh), thủy điện chiếm 12,5%, thủy điện nhỏ và NLTT chiếm 14% (cao hơn Quy hoạch điện VII điều chỉnh 4%), nhập khẩu điện 4% (tăng 3% so với Quy hoạch điện VII điều chỉnh). Tổng điện năng của điện gió và điện mặt trời đến năm 2030 đạt 55 tỷ kWh (vượt mục tiêu tại Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo 4 tỷ kWh).
Để khắc phục nguy cơ thiếu điện, Bộ Công Thương cho biết đã tham mưu trình Chính phủ một loạt các giải pháp.
Một là bổ sung các nguồn điện gió, điện mặt trời vào vận hành giai đoạn 2021-2025. Hai là bổ sung thêm các nguồn điện khí sử dụng LNG. Ba là tăng cường nhập khẩu điện từ Lào, xem xét nhập khẩu thêm điện năng từ Trung Quốc. Bốn là bổ sung và xây dựng lưới điện đồng bộ để giải phóng công suất các nguồn điện. Năm là có các giải pháp khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả.
“Khi các giải pháp này được triển khai đồng bộ, Việt Nam có khả năng đảm bảo cung ứng điện trong giai đoạn 2021-2025”, Bộ Công Thương nhận định.
Lương Bằng