Hiện nay Nhật Bản vẫn mang hình ảnh là quốc gia yếu về quân sự, nhưng theo các nhà phân tích quốc phòng, nếu chiến tranh hải quân xảy ra sẽ không là một cuộc chiến dễ xơi cho láng giềng Trung Quốc.
Mỹ đối mặt với thách thức mang tên "Trung Quốc"
Trung Quốc: Con tàu chạy chệch đường ray?
Lối thoát duy nhất của Trung Quốc
Trung Quốc sẵn sàng 'chơi rắn'?
Trung Quốc: Được - mất với quân bài 'chơi rắn'
- * Chỉ là giả định, nhưng nếu chiến tranh Trung - Nhật nổ ra, bên nào sẽ thắng? Bài viết sau đây sẽ giúp các quí vị có thêm tư liệu để suy ngẫm.
Công tước Wellington đã miêu tả chiến thắng của quân đồng minh trong trận Waterloo là "trận đánh lớn nhất bạn từng thấy trong cuộc đời". Nhưng với một cuộc đụng độ giữa các lực lượng Trung Quốc và Nhật Bản nếu xảy ra ra trong trận chiến tại quần đảo Senkaku/Điếu Ngư, hay ở những nơi khác ở ngoài khơi bờ biển Đông Bắc Á, thì hậu quả của nó chắc cũng không kém nhận xét trên của Wellington.
Một trận chiến như vậy đã có khả năng diễn ra trước năm 2010, khi cảnh sát biển Nhật Bản bắt giữ các ngư dân Trung Quốc do đâm vào một trong các tàu của lực lượng này ở ngay tại vùng đảo tranh chấp, và hiện nay, nguy cơ ấy lại xuất hiện. Sau khi Nhật Bản bắt giữ rồi trục xuất các nhà hoạt động Trung Quốc đổ bộ lên các đảo tranh chấp hồi giữa tháng 8, một thiếu tướng diều hâu Trung Quốc, La Viện, đã kêu gọi Trung Quốc phái 100 tàu tới bảo vệ Điếu Ngư. Trong một phản hồi đăng ngày 20/8, tờ Thời báo hoàn cầu của Trung Quốc, nêu rõ, "Nhật Bản sẽ phải trả giá cho những hành động của mình... và kết cục sẽ còn tồi tệ hơn nhiều những gì họ suy nghĩ".
Và Trung Quốc đã không nói suông. Tháng 7, Hạm đội Hoa Đông của Trung Quốc đã tiến hành một cuộc tập trận mô phỏng một cuộc tấn công đổ bộ lên đảo. Các nhà cầm quyền Trung Quốc rõ ràng đang nghĩ đến những điều không thể. Và với những người biểu tình đổ ra đường và đập vỡ những chiếc xe hơi Nhật, tấn công vào các nhà hàng sushi, thì người dân Trung Quốc có vẻ cũng đang ủng hộ giới lãnh đạo của mình.
Vậy ai sẽ thắng trong một cuộc đấu giữa hai người khổng lồ Thái Bình Dương: Trung Quốc hay Nhật Bản?
Hiện nay Nhật Bản vẫn mang hình ảnh là một quốc gia yếu về quân sự, nhưng chiến tranh hải quân sẽ không là một cuộc đấu dễ cho Trung Quốc. Trong khi hiến pháp "hòa bình" ra đời từ sau thế chiến thứ hai của Nhật Bản "cam kết vĩnh viễn không phát động chiến tranh như là một phương tiện giải quyết xung đột quốc tế bao gồm chiến tranh xâm phạm chủ quyền dân tộc và các hành vi vũ lực hoặc các hành vi đe doạ bằng vũ lực", thì kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Cảnh sát biển Nhật Bản (JMSDF) vẫn duy trì được một số sự ưu việt, như sức chiến đấu trên biển. Lính thủy quân lục chiến Nhật Bản nổi tiếng về tính chuyên nghiệp.
Nếu các tư lệnh giỏi dụng "binh pháp" và tận dụng các lợi thế địa lý, Tokyo có thể biến một cuộc chiến hải quân với Trung Quốc trở thành một trận đánh lớn - và hoàn toàn có khả năng giành phần thắng.
Chiến tranh hải quân giữa hai đối thủ này đã mở đầu cho những tranh cãi biển đảo hiện nay. Trong cuộc chiến Trung - Nhật năm 1894-1895, hạm đội của Hải quân hoàng gia Nhật Bản đã đảo ngược trật tự Trung Quốc là trung tâm của châu Á chỉ trong một buổi chiều. Hạm đội được thành lập vội vàng với những tàu và thiết bị sau thời Minh Trị Duy Tân ấy đã đập tan Hạm đội Bắc Dương của Trung Quốc được coi là vượt trội hơn về mặt trang thiết bị. Nhật Bản giành chiến thắng trong trận chiến trên sông Áp Lục vào tháng 9/1894 nhờ nghệ thuật điều khiển tàu, sử dụng pháo binh và tinh thần thủy thủ cao hơn.
Ngày nay, Nhật Bản không còn là một cường quốc đang trỗi dậy nữa, nhưng lực lượng cảnh sát biển nước này vẫn duy trì được ưu thế về mặt con người này.
Nếu một trận chiến Áp Lục tái diễn, hải quân Nhật Bản có thể có cách nào chống lại Trung Quốc? Một cuộc chiến trực diện Trung Quốc-Nhật Bản khó có thể nổ ra trừ khi khi Bắc Kinh cô lập được Tokyo về mặt ngoại giao hay Tokyo tự cô lập mình thông qua một chính sách ngoại giao khờ dại. Còn không, xung đột sẽ chắc chắn có sự xuất hiện của Mỹ như là một bên tham chiến tích cực đứng về phía Nhật Bản.
Chiến tranh là một màn kịch chính trị - "tài của nhà chính trị dẫn lối vũ trang", như sử gia Alfred Thayer Mahan từng nói - nhưng hãy tạm bỏ qua chính trị và tìm hiểu viễn cảnh chiến tranh trên phương diện quân sự, như một cuộc tỷ thí giữa sức mạnh trên biển của Trung Quốc và Nhật Bản.
Nếu chỉ tính riêng các con số có lẽ sẽ không thể có một cuộc đấu nào ở đây. Hải quân Nhật Bản có 48 "tàu chiến mặt nước lớn", loại tàu được thiết kế để hạm đội tấn công chính của kẻ thù trong khi rất khó bị đánh bại. Đối với JMSDF, các tàu này bao gồm "tàu khu trục máy bay" hay còn gọi là tàu sân bay nhẹ; tàu có tên lửa dẫn đường được trang bị hệ thống chiến đấu Aegis, một hệ thống kết hợp radar, máy tính và điều khiển hỏa lực thường thấy ở các tàu chiến hàng đầu của hải quân Mỹ; và một tập hợp tàu khu trục và tàu hộ tống nhỏ. Ngoài ra còn có một đội tàu chiến gồm 16 tàu ngầm chạy diesel-điện hỗ trợ cho hạm đội mặt nước. Đặt cạnh con số 73 tàu chiến đấu mặt nước lớn của hải quân PLA, 84 máy bay tuần tra trang bị tên lửa và 63 tàu ngầm, sự so sánh có phần yếu thế cho Nhật Bản. Hải quân Trung Quốc vượt trội hơn nếu chỉ tính về "khối lượng sắt thép".
Nhưng ta không nên đem ra so sánh những con số trên vì ba lý do. Thứ nhất, như nhà chiến lược Edward Luttwak quan sát, vũ khí giống như "những chiếc hộp đen" cho tới khi được sử dụng trong chiến đấu: không ai biết chắc các phương tiện này có hoạt động như giới thiệu hay không. Chiến tranh, chứ không phải những thông số kỹ thuật, mới là trọng tài công bằng của công nghệ quân sự.
Việc dự đoán chính xác việc tàu chiến, máy bay, và tên lửa hoạt động ra sao trong hoàn cảnh căng thẳng và hỗn loạn của một cuộc chiến do vậy là điều gần như không thể. Điều này đặc biệt đúng khi xung đột diễn ra giữa một xã hội mở với một xã hội đóng. Xã hội mở có xu hướng tranh luận công khai những thất bại quân sự trong khi những xã hội đóng có xu hướng che đậy những kết quả xấu.
Số liệu thống kê trong cuộc đối đầu Mỹ-Liên Xô cũng có thể áp dụng giống như trong cuộc cạnh tranh Trung-Nhật hiện nay. Hải quân Liên Xô tỏ ra áp đảo trên mặt báo. Nhưng tàu chiến của Liên Xô tại các vùng biển sâu trong Chiến tranh lạnh thì thể hiện nhiều dấu hiệu yếu kém, từ thủy thủ cầm lái cho tới thân tàu. Hải quân PLA có thể cũng đang che đậy điều gì đó.
Chất lượng nền tảng của JMSDF, và năng lực con người, có thể bù đắp một phần hay toàn bộ cho những yếu thế về mặt con số của hải quân Nhật so với PLA.
Thứ hai là biến số con người trong chiến tranh. Trong giải trình về Chiến tranh hải quân 1812, Theodore Roosevelt giải thích, thành công của Hải quân Mỹ trong cuộc đối đầu tàu chiến với Hải quân Hoàng gia Anh là sản phẩm của thiết kế và xây dựng tàu chiến chất lượng và kỹ năng chiến đấu vượt trội: nói cách khác là kết quả của hai nhân tố vật tư và con người kết hợp.
Yếu tố con người được đánh giá ở khả năng điều khiển tàu chiến, sử dụng pháo binh, và vô số các kỹ năng tạo nên sự khác biệt cho mỗi lực lượng hải quân. Lính thủy đánh bộ trau dồi các kỹ năng này không phải bằng cách ngồi ở cảng và đánh bóng quân dụng của mình, mà phải tiến ra biển. Các đội tàu của JMSDF thường tổ chức luyện tập một mình hoặc kết hợp với hải quân các nước khác, trong khi hải quân PLA thì ít hơn. Trừ ngoại lệ triển khai tàu chống cướp biển sang Vịnh Eden bắt đầu năm 2009, các hạm đội tàu của Trung Quốc chỉ xuất hiện trong các chuyến du hành hay tập trận ngắn ngủi, khiến cho các thủy thủ có ít thời gian có thể hoạt động nhịp nhàng, nâng cao trình độ và xây dựng thói quen lành mạnh. Lợi thế nhân lực đang thuộc về Nhật Bản.
Và thứ ba, sẽ là sai lầm nếu chỉ bó gọn trong vấn đề giữa các đội tàu với nhau. Chắc chắn sẽ không thể có một cuộc chiến đơn thuần giữa các hạm đội tại Đông Bắc Á. Địa lý đặt hai người khổng lồ châu Á liền kề nhau: các đảo lớn, bao gồm cả các đảo ở phía xa, chính là những tàu sân bay và bệ phóng tên lửa không thể bị đánh chìm. Những vị trí mặt đất này nếu được trang bị và củng cố hợp lý chính là những yếu tố không thể thiếu giúp triển khai sức mạnh trên biển. Do vậy cũng cần phải tính đến yếu tố hỏa lực từ mặt đất của hai quốc gia.
Nhật Bản đã tạo lập được một "lá chắn vòng cung" ở phía bắc bao gồm một chuỗi đảo đầu tiên bao quanh đường bờ biển của quốc gia châu Á này, tạo dựng một ranh giới phía tây ở Hoàng Hải và Hoa Đông. Không có đảo nào nằm giữa eo biển Tsushima (ngăn cách Nhật Bản với Hàn Quốc) và Đài Loan nằm cách bờ biển Trung Quốc quá 500 dặm (hơn 800km). Hầu hết các đảo, bao gồm cả đảo Senkaku/Điếu Ngư, đều ở gần hơn nhiều. Với một vùng biển chật hẹp như vậy, bất kỳ chiến trường nào cũng sẽ nằm trong tầm bắn của hỏa lực trên bờ. Quân đội cả hai nước đều sở hữu máy bay tác chiến có bán kính không kích trong khắp Hoàng Hải và Hoa Đông và sang tận tây Thái Bình Dương. Cả hai nước đều sở hữu tên lửa hành trình chống hạm phóng từ bờ biển (ASCM), giúp bổ sung cho sức mạnh tổng hợp của mình.
Tuy nhiên, cũng có những sự chênh lệch. Tên lửa đạn đạo thông thường của PLA có thể đánh vào các vị trí trên đất liền ở khắp châu Á, đặt các tài sản thiết bị của Nhật Bản vào thế nguy hiểm trước khi kịp rời cảng hay bay lên trời. Và Lực lượng pháo binh thứ hay, hay còn gọi là lữ đoàn tên lửa, của Trung Quốc được cho là có các tên lửa đạn đạo đối hạm (ASBM) có khả năng bắn từ đất liền hạ tàu thuyền qua lại trên biển. Với tầm bắn ước tính hơn 900 dặm (1.400km), tên lửa ASBM có thể bắn tới bất kỳ nơi nào trong các vùng biển bao quanh Trung Quốc, bao gồm cả các cảng biển trên khắp các đảo của Nhật Bản và xa hơn.
Theo đánh giá của Nhật Bản, quần đảo Senkaku được xem là tài sản khó bảo vệ nhất. Các đảo này nằm gần cực nam của chuỗi đảo Ryukyu, gần với Đài Loan hơn Okinawa hay các đảo lớn của Nhật Bản. Sẽ không dễ bảo vệ quần đảo từ các căn cứ ở xa. Nhưng nếu Nhật Bản triển khai hệ thống vũ khí di động đối hạm Type 88 ASCM và các đội tên lửa tới những đảo nhỏ và các đảo gần chuỗi Ryukyu, đội quân mặt đất của Nhật Bản có thể tạo ra các khu vực vũ khí khai hỏa đan xen và biến các vùng biển gần bờ đó thành vùng không thể hoạt động đối với tàu Trung Quốc. Một khi đã được đưa vào, chúng sẽ rất khó bị đánh bật ra khỏi vị trí, ngay cả đối với các chuyên gia tên lửa và phi công Trung Quốc có quyết tâm.
Bất kỳ quân đội nước nào kết hợp được sức mạnh lực lượng hải quân, bộ binh, không quân để trở thành vũ khí sắc bén nhất cho một cuộc chiến đấu trên biển sẽ có cơ hội giành chiến thắng lớn hơn. Cơ hội này có thể thuộc về Nhật Bản nếu giới lãnh đạo chính trị và quân đội nước này tư duy sáng tạo, sắm sửa đúng loại vũ khí cần thiết và đặt chúng vào vị trí phát huy được tối ưu các khả năng. Dù sao Nhật Bản không cũng cần phải đánh bại quân đội Trung Quốc để giành chiến thắng trước một cuộc đối đầu trên biển, vì nước này đang kiểm soát quần đảo Senkaku là mục tiêu tranh chấp; tất cả những gì Nhật Bản cần làm là chống Trung Quốc tiếp cận khu vực này. Nếu các vùng biển Đông Bắc Á trở thành đất vô chủ trong khi quân đội Nhật Bản vẫn duy trì tại đây, thì chiến thắng chính trị sẽ thuộc về Nhật Bản.
Nhật Bản còn chiếm ưu thế nhờ mật độ tập trung các lực lượng của mình, trong khi Hải quân PLA bị phân tán thành ba hạm đội ra khắp bờ biển dài của Trung Quốc. Các tướng lĩnh Trung Quốc đang ở trong một thế lưỡng nan: nếu họ tập trung lực lượng quy mô lớn để tạo ưu thế về quân số trong cuộc chiến với Nhật Bản thì những khu vực khác của Trung Quốc sẽ không được bảo vệ. Việc bỏ rơi Biển Đông trong khi tham chiến ở Đông Bắc Á sẽ là điều nguy hiểm đối với Trung Quốc.
Và cuối cùng, các lãnh đạo Trung Quốc sẽ buộc phải xem xét một cuộc chiến trên biển sẽ khiến khả năng triển khai sức mạnh hải quân của họ bị hạn chế đến mức nào. Trung Quốc đã đặt cược lớn tương lai kinh tế và ngoại giao của mình vào lực lượng hải quân. Tháng 12/2006, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã chỉ thị có các tư lệnh PLA xây dựng "lực lượng hải quân nhân dân hùng mạnh" để có thể bảo vệ biên giới quốc gia trên biển - đặc biệt là các tuyến hàng hải kết nối giữa những nhà xuất khẩu năng lượng từ Ấn Độ Dương với người dùng Trung Quốc - "ở mọi thời điểm". Để thực hiện chỉ thị này đòi hỏi rất nhiều tàu. Nếu dồn phần lớn đội tàu cho cuộc đụng độ với Nhật Bản, thì cho dù có giành chiến thắng, Bắc Kinh có thể sẽ phải chứng kiến vị thế cường quốc của mình bị đảo ngược chỉ trong một buổi chiều.
Đình Ngân theo foreign policy