Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) vừa trở thành ngân hàng tiếp theo giảm lãi suất huy động. Đây là lần đầu tiên nhà băng này giảm lãi suất trong tháng 3, sau khi đã có 4 lần giảm lãi suất vào tháng trước.
Theo Biểu lãi suất huy động trực tuyến vừa được Sacombank cập nhật, mức giảm của từng kỳ hạn tiền gửi như sau:
Lãi suất huy động kỳ hạn 1 tháng giảm 0,3 điểm phần trăm xuống còn 2,3%/năm; lãi suất huy động kỳ hạn 2 - 3 tháng giảm 0,2 điểm phần trăm, lần lượt xuống còn 2,5%/năm và 2,7%/năm.
Đáng chú ý, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 4 - 5 tháng được Sacombank giảm sốc, lần lượt giảm tới 0,7 điểm phần trăm và 1,1 điểm phần trăm, xuống còn 2,5%/năm.
Lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng giảm 0,2 điểm phần trăm xuống còn 3,7%/năm, trong khi lãi suất kỳ hạn 7 tháng giảm 0,6 điểm phần trăm và kỳ hạn 8 tháng giảm 0,7 điểm phần trăm xuống còn 3,5%/năm.
Lãi suất tiết kiệm trực tuyến kỳ hạn 9 tháng đang được Sacombank niêm yết ở mức 3,8%/năm, giảm 0,4 điểm phần trăm. Trong khi lãi suất kỳ hạn 10 tháng giảm mạnh 0,7 điểm phần trăm xuống 3,6%/năm. Thậm chí, lãi suất huy động kỳ hạn 11 tháng giảm tới 0,8 điểm phần trăm còn 3,6%/năm.
Mức giảm đối với lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng được Sacombank công bố là 0,3 điểm phần trăm xuống còn 4,7%/năm. Kỳ hạn 13 tháng giảm 0,6 điểm phần trăm xuống 5,1%/năm.
Đối với kỳ hạn tiền gửi 15 tháng, lãi suất huy động giảm 0,2 điểm phần trăm còn 4,8%/năm.
Lãi suất kỳ hạn 18 tháng cũng giảm về dưới mức 5% sau khi chỉ còn 4,9%/năm, giảm mạnh 0,7 điểm phần trăm so với trước đó. Đây cũng là mức giảm đối với lãi suất huy động kỳ hạn 24 tháng sau khi chỉ còn 5%/năm.
Không chỉ giảm mạnh đối với lãi suất huy động tất cả các kỳ hạn, Sacombank đã chính thức “xoá sổ” mức lãi suất trên 6%/năm sau khi giảm mạnh lãi suất tiền gửi trực tuyến kỳ hạn 36 tháng từ mức 6,2%/năm về 5,2%/năm.
Với động thái này, hiện mức lãi suất từ 6%/năm đã hoàn toàn biến mất trên thị trường, trừ một số ngân hàng áp dụng chính sách lãi suất đặc biệt với tiền gửi hàng trăm tỷ đồng.
Cũng trong hôm nay, Ngân hàng TMCP An Bình (ABBank) giảm từ 0,1 – 0,2 điểm phần trăm lãi suất tại một số kỳ hạn. Đây là lần đầu tiên trong tháng nhà băng này giảm lãi suất.
Lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng được ABBank giảm 0,1 điểm phần trăm còn 4,6%/năm, kỳ hạn 7 – 8 tháng giảm 0,2 điểm phần trăm còn 4,5%/năm. Lãi suất các kỳ hạn 9 – 12 tháng giảm 0,1 điểm phần trăm xuống còn 4,3%/năm.
Lãi suất huy động các kỳ hạn 13 – 60 tháng được ABBank giữ nguyên ở mức 4,4%/năm. Đây cũng là lãi suất huy động cao nhất tại ABBank.
Ngân hàng TMCP Đông Nam Á (SeABank) cũng chính thức giảm lãi suất huy động lần đầu tiên trong tháng, kể từ hôm nay.
Theo đó, lãi suất huy động trực tuyến kỳ hạn 1 – 5 tháng đồng loạt giảm 0,2 điểm phần trăm, các kỳ hạn 6 – 12 tháng giảm mạnh 0,5 điểm phần trăm và kỳ hạn 15 – 36 tháng giảm 0,2 điểm phần trăm.
Biểu lãi suất huy động trực tuyến mới nhất của SeABank như sau: Lãi suất kỳ hạn 1 – 2 tháng 2,7%/năm, kỳ hạn 3 – 5 tháng 2,9%/năm, kỳ hạn 6 tháng 3,2%/năm, kỳ hạn 7 tháng 3,3%/năm, kỳ hạn 8 tháng 3,35%/năm, kỳ hạn 9 tháng 3,4%/năm, kỳ hạn 10 tháng 3,45%/năm, kỳ hạn 11 tháng 3,5%/năm, kỳ hạn 12 tháng 3,75%/năm, kỳ hạn 15 tháng 4,4%/năm, kỳ hạn 18 – 36 tháng 4,6%/năm.
Kể từ đầu tháng 3 đã có 20 ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động gồm: PGBank, BVBank, BaoViet Bank, GPBank, ACB, Agribank, VPBank, PVCombank, Dong A Bank, MB, Techcombank, NCB, KienLong Bank, Agribank, SCB, Saigonbank, BIDV, Sacombank, ABBank, SeABank.
Trong đó, BaoViet Bank, GPBank, BVBank và PGBank đã 2 lần giảm lãi suất huy động kể từ đầu tháng.
BIỂU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG CAO NHẤT NGÀY 21 THÁNG 3 (%/năm) | ||||||
NGÂN HÀNG | 1 THÁNG | 3 THÁNG | 6 THÁNG | 9 THÁNG | 12 THÁNG | 18 THÁNG |
VIETBANK | 3,1 | 3,5 | 4,6 | 4,8 | 5,3 | 5,8 |
HDBANK | 2,95 | 2,95 | 4,6 | 4,4 | 4,8 | 5,7 |
OCB | 3 | 3,2 | 4,6 | 4,7 | 4,9 | 5,4 |
ABBANK | 3 | 3,2 | 4,6 | 4,2 | 4,2 | 4,4 |
NCB | 3,3 | 3,5 | 4,55 | 4,65 | 5 | 5,5 |
NAM A BANK | 2,9 | 3,4 | 4,5 | 4,8 | 5,3 | 5,7 |
VIET A BANK | 3,1 | 3,4 | 4,5 | 4,5 | 5 | 5,3 |
CBBANK | 3,6 | 3,8 | 4,5 | 4,45 | 4,65 | 4,9 |
OCEANBANK | 3,1 | 3,3 | 4,4 | 4,6 | 5,1 | 5,5 |
BAOVIETBANK | 3 | 3,25 | 4,3 | 4,4 | 4,7 | 5,5 |
PVCOMBANK | 2,85 | 2,85 | 4,3 | 4,3 | 4,8 | 5,1 |
DONG A BANK | 3,3 | 3,3 | 4,3 | 4,5 | 4,8 | 5 |
BVBANK | 3 | 3,2 | 4,2 | 4,5 | 4,8 | 5,5 |
KIENLONGBANK | 3 | 3 | 4,2 | 4,6 | 4,8 | 5,3 |
SHB | 2,6 | 3 | 4,2 | 4,4 | 4,8 | 5,1 |
BAC A BANK | 2,8 | 3 | 4,2 | 4,3 | 4,6 | 5,1 |
VIB | 2,7 | 3 | 4,1 | 4,1 | 4,9 | |
LPBANK | 2,6 | 2,7 | 4 | 4,1 | 5 | 5,6 |
TPBANK | 2,8 | 3 | 4 | 4,8 | 5 | |
PGBANK | 2,6 | 3 | 4 | 4 | 4,3 | 4,8 |
VPBANK | 2,3 | 2,5 | 4 | 4 | 4,3 | 4,3 |
GPBANK | 2,3 | 2,82 | 3,95 | 4,2 | 4,65 | 4,75 |
EXIMBANK | 2,8 | 3,1 | 3,9 | 3,9 | 4,9 | 5,1 |
MSB | 3,5 | 3,5 | 3,9 | 3,9 | 4,3 | 4,3 |
SAIGONBANK | 2,3 | 2,5 | 3,8 | 4,1 | 5 | 5,6 |
SACOMBANK | 2,3 | 2,7 | 3,7 | 3,8 | 4,7 | 4,9 |
ACB | 2,5 | 2,8 | 3,7 | 3,9 | 4,7 | |
TECHCOMBANK | 2,45 | 2,55 | 3,65 | 3,7 | 4,55 | 4,55 |
MB | 2,2 | 2,6 | 3,6 | 3,7 | 4,6 | 4,7 |
VIETINBANK | 1,9 | 2,2 | 3,2 | 3,2 | 4,8 | 4,8 |
SEABANK | 2,7 | 2,9 | 3,2 | 3,4 | 3,75 | 4,6 |
BIDV | 1,8 | 2,1 | 3,1 | 3,1 | 4,7 | 4,7 |
SCB | 1,65 | 1,95 | 3,05 | 3,05 | 4,05 | 4,05 |
VIETCOMBANK | 1,7 | 2 | 3 | 3 | 4,7 | 4,7 |
AGRIBANK | 1,6 | 1,9 | 3 | 3 | 4,7 | 4,7 |
Kể từ 11/3 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã bán 74.997 tỷ đồng tín phiếu (kỳ hạn 28 ngày, lãi suất trung bình 1,4%) trên thị trường mở, giảm bớt thanh khoản hệ thống đang dư thừa trong ngắn hạn và hỗ trợ cho tỷ giá.
Đây là lần phát hành tín phiếu quy mô lớn đầu tiên kể từ giai đoạn tháng 9/2023, khi NHNN cũng tiến hành hút thanh khoản để hỗ trợ tỷ giá.
Trong bối cảnh VNĐ có nhiều yếu tố hỗ trợ hơn so với thời điểm tháng 09/2023, giới phân tích nhận định quy mô hút ròng tín phiếu lần này của NHNN sẽ nhỏ hơn giai đoạn tháng 9/2023 (có thời điểm hút ròng trên 250.000 tỷ đồng).
Tuần vừa qua, lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn qua đêm, 1 tuần, 2 tuần lần lượt tăng 0,44%; 0,45%; 0,27% lên 1,21%; 1,45%; 1,74%. Việc NHNN hút ròng quy mô lớn trên thị trường mở đã đẩy lãi suất liên ngân hàng tăng lên, giảm chênh lệch lãi suất giữa VND và USD.
Tỷ giá trung tâm giảm 17 VNĐ/USD từ 23.996 VNĐ/USD xuống 23.979 VNĐ/USD. Trong khi đó, tỷ giá ngân hàng thương mại tăng 71 VNĐ/USD từ 24.651 VNĐ/USD lên 24.722 VNĐ/USD. Tính từ đầu năm, VNĐ đang mất giá 1,8% so với USD.