LỜI TÒA SOẠN - DIỄN ĐÀN KỶ NGUYÊN MỚI Sau khi được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 13 tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 3/8/2024, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã có những phát biểu chỉ đạo quan trọng trên các lĩnh vực. Cụ thể, qua ba bài viết gần đây như “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ngày 4/8; “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới” ngày 2/9 và “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, yêu cầu cấp bách của giai đoạn cách mạng mới” ngày 16/9, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thường xuyên nhắc đến các khái niệm “khởi điểm mới”, “kỷ nguyên mới”, “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”. Đánh giá những thời cơ, thuận lợi cũng như khó khăn, thách thức về tình hình trong nước, khu vực và thế giới, Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định: “Đất nước đang đứng trước thời điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền để đưa dân tộc tiếp tục tiến lên đang đặt ra cấp bách”. Đặc biệt, đây cũng là định hướng lớn đã được Hội nghị Trung ương 10 thống nhất trong các dự thảo văn kiện trình Đại hội 14 của Đảng. Đồng hành cùng đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, Báo VietNamNet mở diễn đàn "Kỷ nguyên mới của dân tộc", ngõ hầu mang đến các bài viết, những tiếng nói, góp ý của các nhân sĩ, trí thức, bạn đọc gần xa về con đường và cách thức vươn mình của dân tộc Việt Nam... |
Lịch sử thế giới trong hơn 200 năm qua đã chỉ ra một quy luật bất biến: Mỗi khi có sự đột phá về công nghệ hay mỗi khi có cuộc cách mạng công nghiệp thì đó chính là bước ngoặt, là thời điểm mở ra những cơ hội vô cùng to lớn cho các quốc gia, dân tộc, và cho các doanh nghiệp, đặc biệt các quốc gia có khả năng sáng tạo, đi đầu trong việc đưa công nghệ mới vào thực tiễn, đi tiên phong là các doanh nghiệp công nghệ.
Bằng việc nghiên cứu, sáng tạo, chế tạo ra những sản phẩm, dịch vụ công nghệ có năng suất lao động cao hơn, dễ sử dụng hơn, tiện nghi hơn, bằng việc áp dụng những tiến bộ công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, phục vụ nhu cầu ngày càng cao của xã hội, của người dân, nhiều quốc gia đã tạo ra giai đoạn tăng trưởng kinh tế rất cao trong vài chục năm liên tiếp để vươn lên trở thành quốc gia giàu có, thịnh vượng.
Trong thế kỷ 20, chúng ta đã chứng kiến sự tăng trưởng thần kỳ của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc - với kỳ tích trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp nghèo trở thành nền kinh tế phát triển.
Nhật Bản đã thành công nhờ việc lấy công nghiệp nặng (đóng tàu, điện, than, thép), ô tô, điện tử làm động lực chính cho tăng trưởng. Hàn Quốc đã thành công nhờ việc lấy ô tô, điện tử, điện thoại di động làm động lực chính cho tăng trưởng. Đài Loan (Trung Quốc) thành công với việc lấy máy tính và bán dẫn làm động lực cho tăng trưởng. Trung Quốc đang thành công với việc lấy xe ô tô điện, xe ô tô tự lái, công nghệ viễn thông, điện thoại di động, kinh tế số (thương mại điện tử, mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo) làm động lực chính cho tăng trưởng.
Trong 30 năm qua (1994-2024), Việt Nam chúng ta thuộc nhóm các nền kinh tế có tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, thế nhưng chu kỳ tăng trưởng cao nhất của Việt Nam chỉ đạt mức tăng từ 7-9%/năm, vẫn thấp hơn chu kỳ tăng trưởng cao nhất trên 10%/năm của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc.
Chính vì vậy mà trong nhiều năm qua, người Việt Nam chúng ta vẫn đang đau đáu một câu hỏi: “Khi nào và làm cách nào để Việt Nam có thể tạo ra một chu kỳ tăng trưởng kinh tế cao hơn nữa, đưa Việt Nam gia nhập nhóm "con Rồng Châu Á", trở thành quốc gia kinh tế phát triển, giàu có và thịnh vượng?”.
Nhân loại đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, với sự bùng nổ của trí tuệ nhân tạo (AI), sự phổ cập của Internet tốc độ cao, điện thoại thông minh, mạng xã hội, thương mại điện tử, du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến,... khiến kinh tế số có tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều lần kinh tế truyền thống. Ở nhiều quốc gia, kinh tế số đang bắt đầu trở thành động lực mới cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Với tố chất con người, tầm vóc dân tộc, vị thế và tiềm lực của quốc gia, và những kết quả ban đầu trong việc phát triển kinh tế số trong vài năm qua, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất khẩu phần mềm, mobile game, thương mại điện tử, tài chính kỹ thuật số, gọi xe và đặt đồ ăn trực tuyến,... trong ít nhất 30 năm tới (2025-2054), Việt Nam chúng ta nên chọn kinh tế số làm động lực chính cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước.
Tại sao kinh tế số lại là động lực cho tăng trưởng?
Chúng ta chọn kinh tế số là động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế trong 30 năm tới, bởi vì các lý do sau: Tốc độ tăng trưởng cao gấp 2,5-4 lần mức tăng trưởng của kinh tế truyền thống; Giá trị gia tăng và năng suất lao động cao hơn từ 1,5-8 lần so với các ngành kinh tế truyền thống; Là nền tảng cho sự tăng trưởng của các ngành kinh tế truyền thống khác; Không có biên giới, dễ dàng toàn cầu hóa; Cần ít vốn đầu tư; Phát huy tốt nhất tố chất và tiềm năng của người Việt.
Theo báo cáo “e-Conomy SEA 2023” của Google, Temasek và Bain & Company, trong 4 năm 2021-2025, kinh tế số Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao nhất ASEAN, với mức trung bình 24,5%/năm, cao gấp hơn 4 lần mức tăng trưởng GDP (trong khi Philippines tăng trưởng 19,8%, Singapore 17,9%, Indonesia 14,7%, Thái Lan 13,1%, Malaysia 12,1%). Việt Nam cũng có tốc độ tăng trưởng cao nhất ASEAN trong các lĩnh vực thương mại điện tử, gọi xe và đồ ăn online, du lịch online, thanh toán online.
Báo cáo đưa ra dự đoán trong giai đoạn 2025-2030, kinh tế số Việt Nam tiếp tục có tốc độ tăng trưởng cao nhất và đồng thời cũng là quốc gia có tỷ trọng kinh tế số trên tổng GDP cao nhất ASEAN (tỷ trọng kinh tế số trên GDP quốc gia năm 2030: Việt Nam 26,79%, Thái Lan 22%, Philippines 19,46%, Indonesia 15,19%, Malaysia 10,95%, Singapore 9,5%).
Số liệu năm 2023 của ngành dệt may: Xuất khẩu 40,3 tỷ USD, nhập khẩu 21 tỷ USD, xuất siêu 19,3 tỷ USD, có 2,5 triệu lao động, doanh số trung bình đầu người là 7.720 USD. Tạm tính chi phí nhập khẩu máy móc, công cụ làm việc khoảng 10%. Như vậy, giá trị gia tăng đầu người còn 6.948 USD.
Một thống kê khác, không nằm trong báo cáo “e-Conomy SEA 2023”, cho thấy xuất khẩu phần mềm cũng đạt con số tăng trưởng 25% một năm (lưu ý rằng trong báo cáo e-Conomy SEA chưa tính dịch vụ phần mềm, dịch vụ viễn thông, mobile game, AI, bán dẫn vào kinh tế số).
Các ngành thuộc kinh tế số có giá trị gia tăng và năng suất lao động cao hơn rất nhiều so với các ngành kinh tế truyền thống. Theo thống kê, lĩnh vực xuất khẩu phần mềm có giá trị gia tăng đầu người từ 31.500 - 40.500 USD, trong khi ngành dệt may, giày da khoảng 6.948 USD. Như vậy giá trị gia tăng của xuất khẩu phần mềm cao gấp 4,5 đến 5,8 lần dệt may, da giày.
Chưa hết, giá trị gia tăng của lĩnh vực phát triển sản phẩm "Make by Vietnam", AI, thiết kế chip, phát triển mobile game còn cao hơn xuất khẩu phần mềm.
Mặt khác, ngành dệt may, da giày chủ yếu là doanh nghiệp FDI, vì thế lợi nhuận là của khối FDI, còn kinh tế số hầu hết là của các doanh nghiệp Việt Nam.
Một điểm rất quan trọng, người Việt có tiềm năng lớn trong lĩnh vực kinh tế số. Bằng chứng có thể kể tới: Viettel giữ vị trí công ty viễn thông hàng đầu ASEAN trong nhiều năm, là thương hiệu viễn thông có giá trị lớn thứ 15 toàn cầu, đứng trên nhiều công ty viễn thông của các nước kinh tế phát triển; FPT Software là công ty phần mềm ASEAN đầu tiên đạt doanh thu xuất khẩu phần mềm trên 1 tỷ USD; Ở Nhật Bản đã có Hiệp hội Chuyển đổi số Việt Nam - Nhật Bản với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp phần mềm Việt Nam tại Nhật Bản; Việt Nam thuộc top 7 thế giới về sản xuất mobile game.
Về bán dẫn, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Á, nơi chiếm đến 80% sản lượng bán dẫn toàn cầu, tuy chúng ta mới đang ở giai đoạn khởi động, nhưng có một nhận định đáng suy ngẫm: "Những dân tộc ăn đũa có tố chất phù hợp với làm bán dẫn, bao gồm cả thiết kế, sản xuất chip" (cơ sở cho kết luận này là sự thành công của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và Trung Quốc trong lĩnh vực bán dẫn, với các tên tuổi lớn như TSMC, Samsung, SK Hynix, UUMC, MediaTek.
Để củng cố niềm tin vào tiềm năng của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế số, chúng ta hãy nghe tỷ phú Narayana Murthy, một trong 12 doanh nhân vĩ đại nhất thời đại của Fortune nói trên VTV4 trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5/2024: “Người Việt Nam được biết đến với khát vọng lớn, sự chăm chỉ, sự hy sinh và khả năng đạt được bất cứ điều gì mà họ muốn. Đây là một quốc gia tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết và tự tin. Ngoài Ấn Độ ra thì Việt Nam là nước duy nhất ở châu Á (không phải Singapore, Nhật Bản, Trung Quốc hay Malaysia), có thể thành công lớn trong lĩnh vực xuất khẩu phần mềm (đạt con số tỷ USD như FPT)”.
Việt Nam phải làm những gì?
Đầu tiên phải quan tâm tới hạ tầng viễn thông. Kinh tế số là kinh tế trên nền tảng Internet, vì thế cần Internet tốc độ cao, có độ phủ rộng khắp đến "hang cùng, ngõ hẻm", rừng núi và hải đảo.
Việc triển khai mạng 5G cần được đẩy thật nhanh. Hiện tại độ phủ sóng 5G của Việt Nam chưa được như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc) và các nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines... cũng như Ấn Độ, Sri Lanka. Nếu coi kinh tế số là động lực chính cho tăng trưởng và phát triển kinh tế thì cần đẩy mạnh 5G.
Cùng với đó, cần quan tâm hơn tới logistics - nền tảng cho thương mại điện tử. Giao hàng nhanh chóng giúp hàng hóa lưu thông, vòng quay tiền ngắn, và phí logicstics thấp giúp cho việc sử dụng vốn hiệu quả cao. Việc phát triển giao thông, bao gồm cả hàng không, đường bộ cao tốc và đường sắt cao tốc rất quan trọng. Bài học của Trung Quốc rất đáng để học tập: Nhờ có hệ thống đường sắt cao tốc nên đã đạt chuẩn giao hàng thương mại điện tử chỉ 24h trên toàn quốc, trong khi chuẩn của Mỹ là 72h.
Mặt khác, ngân hàng số, thanh toán và cho vay online của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất ASEAN (chỉ trong vòng vài năm sau đại dịch Covid-19, việc chuyển tiền online đã nhanh chóng trở nên phổ cập; một số ngân hàng đã cung cấp dịch vụ thanh toán online, QR code sang một số nước ASEAN), thế nhưng, tỷ trọng thanh toán online vẫn chưa thật cao. Cần tiếp tục triển khai theo hướng hỗ trợ để việc mua bán trên các sàn thương mại điện tử quốc tế ngày càng nhanh chóng, thuận tiện hơn.
Điểm cuối cùng, Chính phủ cần đầu tư mạnh mẽ cho việc xây dựng hệ thống Chính phủ số hiệu quả, đồng thời cần tạo khung pháp lý rõ ràng, minh bạch về kinh tế số. Cần xây dựng chiến lược quốc gia về kinh tế số, đặc biệt là về bán dẫn và AI - hai lĩnh vực có tiềm năng vô cùng lớn.