PSX_20250423_173037.jpg
Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Mạnh Hùng: Đổi mới sáng tạo và CĐS dễ hơn KHCN nhưng lại mang tính quyết định trong sự phát triển của Việt Nam. Ảnh: Lê Anh Dũng
Khoa học là tìm ra cái đã có sẵn trong Trời Đất, là bí mật của Trời Đất. Công nghệ là sáng tạo ra cái mới chưa có trong Trời Đất. Vì thế, phát triển Công nghệ là không gian của con người, sự sáng tạo ở đây là vô hạn.  Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Khoa học công nghệ (KHCN) gồm khoa học (KH) và công nghệ (CN). KH là lấy được tri thức của Trời, là tìm ra cái đã có sẵn trong Trời, không phải sáng tạo ra. CN là sáng tạo ra công cụ dựa trên tri thức của Trời, là con người sáng tạo ra, không phải là cái đã có sẵn ở Trời. Vậy, KH và CN là khác nhau, cần cách tiếp cận, cách làm khác nhau. KH là tìm ra cái đã có sẵn trong Trời Đất, là bí mật của Trời Đất. CN là sáng tạo ra cái mới chưa có trong Trời Đất. Vì thế, phát triển CN là không gian của con người, sự sáng tạo ở đây là vô hạn.

Về bối cảnh thế giới. KHCN phát triển nhanh chưa từng có. Nhiều CN đột phá, thay đổi cuộc chơi, phá huỷ các hệ thống, tư duy cũ, thay đổi cách phát triển, cách cạnh tranh. Cạnh tranh công nghệ thành mặt trận cạnh tranh chính, sẽ làm thay đổi trật tự toàn cầu. Không tự cường là phụ thuộc và thu lợi rất ít. Cạnh tranh gốc vẫn phải quay về NC cơ bản, nhưng với những nước đang phát triển thì cần lộ trình phù hợp.

Một quốc gia muốn trở thành cường quốc thì phải là cường quốc KHCN. Một quốc gia muốn trở thành nước phát triển thì phải là một quốc gia có KHCN phát triển.  Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

KHCN mà hưng thịnh thì quốc gia mới hưng thịnh. KHCN mà mạnh thì quốc gia mới mạnh. KHCN không phải vì KHCN mà phải vì sự hưng thịnh quốc gia, đóng góp cho nhân loại. Một quốc gia muốn trở thành cường quốc thì phải là cường quốc KHCN. Một quốc gia muốn trở thành nước phát triển thì phải là một quốc gia có KHCN phát triển.

Hiện đại hoá Việt Nam phải dựa vào hiện đại hoá KHCN làm nền tảng. Phát triển chất lượng cao phải dựa vào KHCN. Phát triển 2 con số phải dựa vào KHCN. Bởi vậy, KHCN là cái nền quốc gia.

Con đường phát triển KHCN Việt Nam: 1- KHCN hướng vào phát triển KT-XH, giải các bài toán lớn quốc gia; 2- CĐS toàn diện để tạo đất cho KHCN/ĐMST; 3- ĐMST toàn dân để phát triển KHCN; 4- KHCN tập trung vào làm chủ các CN chiến lược, các CN mà Việt Nam có nhu cầu lớn nhưng đang phụ thuộc; 5- Gắn KHCN với công nghiệp, với đổi mới công nghiệp, hỗ trợ phát triển năng lực sản xuất; 6- Nhân tài là cốt lõi; 7- Đổi mới hệ thống quản trị KHCN.

Thể chế KHCN phải liên tục được cải cách để khơi dậy tính chủ động, tích cực và sáng tạo của nhà khoa học, kỹ sư, hướng tới làm chủ công nghệ, tự lực, tự cường trong KHCN. Tái cấu trúc hệ thống KHCN, tái cấu trúc các cơ cấu chi, nâng cao năng lực đổi mới của các chủ thể, cá nhân hoạt động KHCN. Loại bỏ các rào cản tư duy, rào cản cơ chế đối với KHCN. Trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các tổ chức và cá nhân nghiên cứu KHCN. Xây dựng thể chế trở thành lợi thế cạnh tranh về KHCN. Phân bổ đủ nguồn lực quốc gia để KHCN thực sự trở thành động lực phát triển (3% ngân sách Nhà nước cho KHCN/ĐMST). Vai trò quyết định của thị trường trong phân bổ nguồn lực cho KHCN, đồng thời tận dụng vai trò của Nhà nước để mồi, khơi dậy sự tích cực ở các khâu nghiên cứu, sản xuất và đào tạo. Luật KH&CN sửa đổi phải thể hiện được các định hướng này.

KHCN hướng đến kết quả cuối cùng là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, tăng năng suất lao động, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, nâng cao năng lực quản trị quốc gia.

KHCN hướng tới giải quyết các bài toán lớn của quốc gia: Tăng trưởng 2 con số, tinh gọn bộ máy, tăng trưởng chất lượng cao, giải quyết ô nhiễm môi trường, tăng cường tiềm lực bảo vệ Tổ quốc, trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045...

KHCN thúc đẩy đổi mới sáng tạo (ĐMST) và đặt trong ngữ cảnh chuyển đổi số (CĐS). Lấy CĐS làm môi trường phát triển KHCN.

KHCN là tìm ra hạt giống, nhưng gieo trồng ở mảnh đất nào, chăm sóc cho đến khi thu hoạch là công đoạn tiếp theo của KHCN, là ĐMST. KHCN mà bị đứt gãy, không nối được với ĐMST thì là thất bại.  Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Kiên trì con đường ĐMST. Coi ĐMST và CĐS là đặc điểm lớn nhất của phát triển KHCN giai đoạn này. ĐMST và CĐS thì dễ hơn KHCN, nhưng lại mang tính quyết định trong sự phát triển của Việt Nam. ĐMST và CĐS cũng là bước trung gian để tiến tới làm chủ CN. Kiên trì con đường tự lực, tự cường KHCN để nắm quyền chủ động. Luật KH&CN được sửa đổi thành Luật KH, CN và ĐMST, đặt ĐMST ngang với KHCN để nhấn mạnh khía cạnh ứng dụng của KHCN. Cường quốc KHCN phải thông qua cường quốc về ĐMST. Các tổ chức nghiên cứu KHCN phải phải gắn với các tổ chức ĐMST. KHCN là tìm ra hạt giống, nhưng gieo trồng ở mảnh đất nào, chăm sóc cho đến khi thu hoạch là công đoạn tiếp theo của KHCN, là ĐMST. KHCN mà bị đứt gãy, không nối được với ĐMST thì là thất bại.

Khoa học công nghệ.jpg
KHCN phải hướng tới các sản phẩm chiến lược, các ngành công nghiệp chiến lược. 

KHCN hướng tới làm chủ các công nghệ chiến lược của Việt Nam. Tiến tới tự lực, tự chủ và tự cường về KHCN. CN chiến lược phải dẫn đến các sản phẩm chiến lược và các ngành công nghiệp chiến lược. Vì chỉ khi trở thành ngành công nghiệp thì tác động vào nền kinh tế mới đủ lớn. Bởi vậy, KHCN phải hướng tới các sản phẩm chiến lược, các ngành công nghiệp chiến lược. Cách mà chúng ta làm chủ công nghệ lõi là đi từ làm chủ sản phẩm, làm chủ thiết kế sản phẩm, tích hợp thành sản phẩm thương mại. Đây là giai đoạn trung gian để tiến tới làm chủ CN.

KHCN đóng góp 1% vào tăng trưởng GDP của đất nước

Chuyển từ tư duy nghiên cứu để có kết quả (có bài báo, có báo cáo) sang nghiên cứu để thay đổi thực tiễn. Thay đổi thực tiễn có thể là thay đổi một nhận thức, không nhất thiết là ứng dụng CN. Các nhiệm vụ KHCN phải gắn với nhu cầu cụ thể của ngành, địa phương, doanh nghiệp, có đầu ra áp dụng, có đối tác tiếp nhận.

KHCN không chỉ đi từ trên Trời xuống dưới Đất mà chủ yếu là đi từ dưới Đất lên Trời. Lấy thực tiễn làm mảnh đất phát triển KHCN, từ nhu cầu của thực tiễn mà đặt ra bài toán cho KHCN.  Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

KHCN không chỉ đi từ trên Trời xuống dưới Đất mà chủ yếu là đi từ dưới Đất lên Trời. Lấy thực tiễn làm mảnh đất phát triển KHCN, từ nhu cầu của thực tiễn mà đặt ra bài toán cho KHCN.

Đo lường được kết quả cuối cùng của KHCN, đo lường được tác động của KHCN tới tăng trưởng kinh tế, tới năng lực cạnh tranh quốc gia, tới chất lượng cuộc sống người dân. Nếu đo được kết quả đầu ra thì không ngại khoán chi, không ngại chi đầu vào tăng lên.

Cân bằng KH tự nhiên và KH xã hội. KH xã hội đóng góp cho sự phát triển của đất nước không kém gì KH tự nhiên. Như những nghiên cứu về đổi mới quản trị quốc gia trong bối cảnh CĐS, trong mô hình 2 cấp; nghiên cứu về chiến lược phát triển đất nước dựa trên văn hoá; nghiên cứu đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong kỷ nguyên mới; nghiên cứu về thực thi hiệu quả các nghị quyết của Đảng; nghiên cứu về việc thu hút người tài, tạo ra người tài tham gia điều hành, phát triển đất nước...

Một đồng Nhà nước chi cho KHCN phải mồi được, phải kéo được 3-4 đồng nghiên cứu của doanh nghiệp. 70-80% ngân sách nghiên cứu KHCN là tài trợ cho hoạt động nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp, chứ không như trước đây, hầu như không tài trợ cho doanh nghiệp. Tài trợ doanh nghiệp thì theo công thức đồng tài trợ: Nhà nước chi 25%, doanh nghiệp chi 75%. Chi cho viện trường thì cơ bản Nhà nước phải bỏ ra 100%.

Doanh nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong đổi mới công nghệ. Phát huy vai trò của các doanh nghiệp lớn trong nghiên cứu phát triển, nhất là phát triển các CN chiến lược. Nhà nước khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới CN. Hỗ trợ doanh nghiệp chủ trì hoặc tham gia các dự án KHCN quan trọng của quốc gia. Dẫn dắt doanh nghiệp hợp tác chặt chẽ với các viện trường, cùng nhau giải quyết các vấn đề KHCN trong ngành, phối hợp tiến hành các nghiên cứu, tạo ra nhân tài trong lĩnh vực KHCN.

Chuyển cơ bản toàn bộ nghiên cứu (NC) cơ bản về đại học. Nơi đây có nhân lực tốt nhất và dồi dào nhất, đó là giáo sư, giáo viên, nghiên cứu sinh, sinh viên. Lực lượng nghiên cứu phát triển ở các đại học thì cơ bản là mãi mãi trẻ.

Nghiên cứu cơ bản cũng hướng tới địa chỉ ứng dụng. Thiết lập cơ chế đánh giá nhiệm vụ KH theo 3 nhóm: 1- Phục vụ chính sách công. 2- Ứng dụng doanh nghiệp. 3- Nâng cao tri thức nền. Mỗi nhóm có tiêu chí khác nhau. Vụ Khoa học phải ban hành các tiêu chí đánh giá này. Chú ý, bài báo là cần thiết để khẳng định trình độ học thuật, nhưng không nên là tiêu chí duy nhất để đánh giá nghiên cứu KH, đặc biệt là khi ngân sách công đang cần hướng tới giải quyết các bài toán của quốc gia, ngành và địa phương, góp phần phát triển KT-XH.

Cơ cấu lại các chương trình KHCN. Bỏ hình thức, bỏ dàn trải, tập trung theo hướng ít mà trúng. Hiện chúng ta đang tài trợ quá nhiều (trên 40 chương trình) nhưng hiệu quả không rõ ràng. Phải tái cơ cấu lại chỉ còn dưới 10 chương trình. Bám sát vào các công nghệ chiến lược, các lĩnh vực mũi nhọn mà Việt Nam có nhu cần và năng lực, để cơ cấu lại. Tài trợ thì lớn hơn (không chỉ vài tỷ, mà còn là vài chục tỷ, vài trăm tỷ và lớn hơn). Quản lý đầu ra cho thật rõ, nhưng kiểm toán đầu vào nhẹ hơn.

Nhà khoa học không chỉ là người có bài báo, có chức danh khoa học, có bằng cấp hay có giải thưởng mà phải là người có bằng sáng chế được ứng dụng trong thực tế tạo ra giá trị cao cho tăng trưởng kinh tế, hoặc nâng cao tri thức nền.  Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Nhà khoa học không chỉ là người có bài báo, có chức danh khoa học, có bằng cấp hay có giải thưởng mà phải là người có bằng sáng chế được ứng dụng trong thực tế tạo ra giá trị cao cho tăng trưởng kinh tế, hoặc nâng cao tri thức nền. Các tri thức mới, giải pháp mới được tìm ra (lý thuyết, mô hình, thuật toán, công nghệ, hoặc chính sách) có tác động thực tế thông qua việc kết quả nghiên cứu được ứng dụng vào sản phẩm, công nghệ, chính sách hoặc giải pháp xã hội.

Người nghiên cứu được khoán chi phí, được sở hữu kết quả NC để mang đi thương mại hoá, được hưởng lợi từ thương mại hoá kết quả NC. Nhà KHCN thương mại hoá được kết quả NC thì thu nhập đó được miễn, giảm thuế thu nhập cá nhân.

Cần xây dựng một chương trình quốc gia qui mô lớn về nâng cấp CN cho các doanh nghiệp theo từng chuỗi. Chọn ra 1% (10.000) những doanh nghiệp quan trọng nhất của các chuỗi (thí dụ dệt may, chế biến nông sản, vật liệu xây dựng...) để nâng cấp công nghệ.

CĐS toàn diện hoạt động KHCN, công tác quản lý KHCN. Xây dựng nền tảng số quản lý toàn bộ vòng đời nhiệm vụ KHCN. Các cơ sở NC phải dùng nền tảng này để quản lý đề tài NC dùng ngân sách Nhà nước.

Về hợp tác quốc tế

KHCN Việt Nam tham gia giải bài toán toàn cầu, đa số các bài toán lớn của Việt Nam đều là bài toán toàn cầu, giải được bài toán Việt Nam là giải được bài toán toàn cầu.   Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

KHCN có tính toàn cầu và thời đại. Hợp tác để phát triển KHCN nước nhà và đóng góp vào KHCN thế giới. Hợp tác KHCN bao giờ cũng là 2 bên cùng có lợi, dựa trên lợi thế các bên để hợp tác. KHCN Việt Nam tham gia giải bài toán toàn cầu, đa số các bài toán lớn của Việt Nam đều là bài toán toàn cầu, giải được bài toán Việt Nam là giải được bài toán toàn cầu. Việt Nam không đi xin nữa, phải có cái Việt Nam mang ra, có cái Việt Nam mang về. KHCN là mạng lưới toàn cầu. Càng mạng lưới thì KHCN càng phát triển. Các đơn vị trong khối phải xây dựng mạng lưới KHCN toàn quốc và toàn cầu.

Cơ cấu chi KHCN/ĐMST/CĐS từ ngân sách Nhà nước

Cơ cấu chi cho bộ 3 KHCN/ĐMST/CĐS là tương đương nhau.

Cơ cấu chi KHCN theo 3 cấu thành chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi nhiệm vụ là:10/20/70. Dành phần lớn tiền chi cho các nhiệm vụ KHCN. Liên tục đầu tư hàng năm, mỗi năm 5.000 tỷ đồng, để phát triển cơ sở vật chất, nhất là các phòng thí nghiệm trọng điểm, hình thành hạ tầng KHCN.

Muốn đi một chặng đường dài về KHCN thì phải tầm nhìn xa, trông rộng, hoạch định toàn cục, nhưng có tập trung vào cốt lõi.  Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng

Cơ cấu chi nhiệm vụ nghiên cứu KH và nhiệm vụ phát triển CN là: 15/85. Dành 85% chi KHCN cho phát triển công nghệ. Các nước đang phát triển thì đều ưu tiên chi phát triển CN. Chi nghiên cứu KH chiếm 15% nhưng về số tuyệt đối là gấp 4-5 lần so với năm 2024.

Cơ cấu chi nhiệm vụ KHCN giữa viện trường và doanh nghiệp: 20/80. Dịch chuyển mạnh mẽ phát triển CN về doanh nghiệp.

Muốn đi một chặng đường dài về KHCN thì phải tầm nhìn xa, trông rộng, hoạch định toàn cục, nhưng có tập trung vào cốt lõi. Vụ Khoa học và Vụ Công nghệ phải hoạch định tầm nhìn này, có thể là một bản chiến lược, hoặc tốt nhất là một guideline để giúp Bộ luôn đi đúng hướng.