1.jpg.jpg
Đối tượng chính sử dụng Internet tại các vùng nông thôn là những người trẻ.

Diễn ra trong 18 tháng tại 99 điểm truy cập Internet công cộng của 3 tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An và Trà Vinh, Dự án thí điểm nâng cao khả năng tiếp cận máy tính và Internet công cộng tại Việt Nam do Quỹ Bill & Melinda Gates (BMGF) tài trợ đã chuẩn bị kết thúc. Hiện nay, Dự án mở rộng đang được lên kế hoạch đề xuất trình các bên liên quan.

Người dân đã làm gì với Internet?

Dự án thí điểm cho thấy nhu cầu sử dụng máy tính và Internet của người dân rất lớn. Trước khi dự án triển khai, tính sẵn có của máy tính và Internet ở các địa phương rất thấp. 55,7% những người đến BĐVHX, 45,8% những người đến thư viện cho rằng các điểm dịch vụ Internet gần nhà họ không đáp ứng đủ nhu cầu sử dụng. Theo dự thảo Báo cáo đánh giá tác động Dự án thí điểm, việc phổ cập máy tính và Internet đã bước đầu giúp người dân gia tăng lợi ích kinh tế - xã hội của cá nhân và cộng đồng. Thông qua việc tiếp cận và sử dụng Internet, người dân đã tìm kiếm và thu nhận được những thông tin phù hợp với nhu cầu công việc và cuộc sống của mình. Internet cung cấp cho người dân một công cụ hữu hiệu để cập nhật tin tức bên cạnh các loại hình truyền thống như truyền hình, phát thanh, báo giấy. 84,6% số người được hỏi tại BĐVHX và 87,5% số người được hỏi tại thư viện cho biết đã từng sử dụng máy tính và Internet để đọc báo, cập nhật tin tức kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung ở các mức độ khác nhau.

Đối tượng chính sử dụng Internet lại là những người đang trong độ tuổi có nhu cầu học tập (15-35 tuổi) vì thế 42,9% người được hỏi tại BĐVHX trả lời đã sử dụng máy tính và Internet phục vụ cho mục đích học tập ở các mức độ khác nhau. Tại cả 3 tỉnh thí điểm, có trên 82% người dân sử dụng Internet vào mục đích phục vụ cho học tập, 83,5% dùng máy tính, Internet để tìm kiếm tài liệu sách báo. Tuy nhiên, trong giai đoạn thí điểm này, việc khai thác Internet của người dân để học tập mới dừng lại ở tìm kiếm thông tin chứ chưa sử dụng được nhiều các công cụ học tập hiện đại như học trực tuyến, thảo luận qua mạng…

Đã có những nhóm dân sử dụng Internet để tìm kiếm thông tin về y tế và chăm sóc sức khỏe. Khoảng 35,3% số người được hỏi tại BĐVHX đã sử dụng máy tính và Internet cho các mục đích tìm kiếm thông tin y tế và chăm sóc sức khỏe, phần lớn là tìm hiểu cách phòng bệnh và chữa bệnh. Nông nghiệp là lĩnh vực hoạt động quan trọng đối với nông thôn và người nông dân Việt Nam. Vào thời điểm đánh giá, số người dân ở các vùng thí điểm dùng Internet phục vụ cho công việc này đạt 35,7% . Trong số này, có 82,1% tìm thông tin về quy trình và kỹ thuật sản xuất. Còn tại thư viện, 25% người được hỏi trả lời đã từng sử dụng máy tính và Internet để tìm kiếm thông tin liên quan đến nông nghiệp nông thôn, trên 70% số đó tìm hiểu thông tin quy trình kỹ thuật sản xuất.

Một mục đích lớn của việc sử dụng máy tính và Internet tại các vùng thí điểm là giúp người dân đa dạng hóa những hình thức giải trí thư giãn vốn rất thiếu ở vùng nông thôn. Chính vì thế, có đến 62,4% người được hỏi tại BĐVHX trả lời đã từng sử dụng máy tính, Internet tại BĐVHX để phục vụ mục đích giải trí ở các mức độ khác nhau. Các lợi ích giải trí cụ thể nhất là nghe, tải nhạc, chơi game. Thực tế, khi dự án triển khai, phần đông người dân mới bắt đầu được tiếp cận với Internet, vì thế họ cần và muốn ứng dụng nó vào những nhu cầu gần gũi, đơn giản nhất, qua đó dần nâng cao trình độ, khả năng khai thác thông tin để phục vụ cho các nhu cầu khác cao hơn. Tuy nhiên, theo một cán bộ của BMGF, nếu người dân chỉ dừng lại ở mức độ giải trí thì họ chưa được hưởng 100% lợi ích của Internet.

Sử dụng Internet với những ưu thế về công nghệ như nhanh hơn, chất lượng tốt hơn và giá rẻ hơn các hình thức liên lạc thông thường (gửi thư, gọi điện thoại) giúp người dân liên lạc với bạn bè, người thân thường xuyên hơn. 44,8% người được hỏi tại BĐVHX sử dụng máy tính và Internet cho mục đích liên lạc với bạn bè người thân ở các mức độ khác nhau.

1.jpg.jpg
Ảnh minh họa

Cần đảm bảo tính bền vững của dự án

Theo ông Sam Sternin, cán bộ dự án của BMGF, Dự án thí điểm cho thấy nhu cầu của người sử dụng máy tính và Internet ở vùng sâu vùng xa rất cao. “Việc khó nhất không phải là dạy cho người dân sử dụng máy tính hay sử dụng phần mềm về Internet mà khó nhất là tìm hiểu các nhu cầu thông tin của từng nhóm đối tượng và giúp họ gặp được các nguồn thông tin thích hợp nhất”, ông Sam Sternin nói. Các đối tượng tham gia dự án rất đa dạng gồm các nhóm đối tượng khác nhau về nghề nghiệp, trình độ học vấn và tương đối trẻ (dưới 35 tuổi). Đó sẽ là những người quyết định tương lai của cộng đồng. Việc gia tăng được nhu cầu cũng như kỹ năng sử dụng của các đối tượng này là nhân tố chính quyết định đến tính bền vững của dự án. Một lực lượng quan trọng góp phần đảm bảo tính bền vững của dự án chính là cán bộ làm việc tại các điểm BĐVHX hoặc các thư viện công có lắp đặt máy tính và truy nhập Internet. Họ chính là những người trung gian giới thiệu kỹ năng sử dụng các tiện ích của máy tính và Internet cho người dân. Các chính sách về cơ sở hạ tầng, cơ chế chính sách đảm bảo tính ổn định của cán bộ sẽ là những yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo tính bền vững dự án.

Với xu hướng xã hội kết nối, theo BMGF, những vùng, quốc gia, và địa phương tìm được cách để kết nối người dân với các loại thông tin phù hợp sẽ thành công; những khu vực không đặt được vấn đề này sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa. Dự án mở rộng là một cơ hội cho Chính phủ, người dân tìm hiểu về vấn đề này, xây dựng các mô hình hiệu quả, thu được số liệu, tạo cơ sở để xây dựng một chiến lược lâu dài. BMGF mong muốn trong thời gian triển khai dự án cũng như sau khi dự án kết thúc, Chính phủ Việt Nam sẽ đầu tư thêm để đảm bảo sự bền vững lâu dài của các điểm trong dự án và mở rộng thêm nữa nhằm hỗ trợ cho các thư viện, BĐVHX còn lại.

Dự án mở rộng đang được các bên liên quan ở Trung ương và địa phương xây dựng, dự kiến trong vài năm tới sẽ cung cấp dịch vụ tại gần 400 điểm thư viện tỉnh, huyện và 1.500 điểm BĐVHX. Dự án mở rộng thu hút khoảng 40 tỉnh tham gia. Các bài học từ dự án thí điểm sẽ được sử dụng để xây dựng và tổ chức triển khai dự án mở rộng.

Đọc toàn bộ bài viết trên báo Bưu điện Việt Nam số 51, 52, 53 ra ngày 28/4/2010.