Thứ nhất là sân khấu biểu diễn khép kín trong hội trường Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam chỉ rộng khoảng 200m2. Sân khấu kéo suốt chiều dài hội trường với lán trại, hầm hào, con đường vận chuyển, rừng núi; dưới nền xếp những bao tải đất chèn hầm, vá đường. Các thân cây cổ thụ cháy sém và một vỏ quả bom loại nhỏ cỡ 250kg dựng cạnh thân cây dùng làm kẻng báo động. Khu sân chính giữa có bồn nước, bu gà cùng mấy chiếc lốp xe chứa đất trồng rau.
Đó là bối cảnh cố định duy nhất ngoại trừ hậu cảnh được sử dụng ánh sáng để thể hiện hình ảnh như đoàn xe vận chuyển, cảnh bom đạn bắn phá…
Khán giả ngồi ở phần còn lại của hội trường cùng trên mặt bằng sàn nhà. Tôi đếm được 80 ghế chế tác thành hòm đạn có đánh số, gần như không có khoảng cách nào giữa diễn viên và người xem.
Sân khấu này được đạo diễn Lê Quý Dương coi là sân khấu thực chứng, phá vỡ hình thức truyền thống. Nghĩa là những gì xảy ra ở sàn diễn là sự thật được minh chứng một cách giản dị và “thật” nhất.
Tuy nhiên, điều lo ngại nhất là câu chuyện của 10 cô TNXP hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành thành huyền thoại được sử sách, truyền thông và các loại hình nghệ thuật khai thác hơn nửa thế kỷ, nay đưa lại nội dung quen thuộc đó liệu có sáo mòn?
Thêm nữa, dàn diễn viên không được chọn từ đội ngũ chuyên nghiệp mà hoàn toàn nghiệp dư, không qua trường lớp đào tạo nghệ thuật. Họ lại không phải người Hà Tĩnh thế nên phải học tiếng và cách phát âm miền Trung cho phù hợp với tiêu chí “thực chứng”. Số diễn viên này được tuyển lựa từ ngoại hình đến tuổi tác gần nhất với nhân vật đều trong độ tuổi thanh xuân và chưa có gia đình. Chủ ý của đạo diễn Lê Quý Dương là tạo ra những xúc cảm chân thật từ diễn viên nhập vai nhân vật.
Thế nhưng, ngay khi đèn tắt, lời dẫn chuyện vang lên cả khán phòng lặng đi như hoà vào không khí chiến trận của gần 60 năm trước. Năm 1968, tại chiến trường Ngã ba Đồng Lộc. 10 cô gái TNXP xuất hiện với chỉ vài đoạn thoại khi sinh hoạt đã khiến cảm giác lo ngại của tôi biến mất.
75 phút kịch là những khoảnh khắc dồn nén về cuộc sống chiến đấu và sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái. Song những gì diễn ra không hề cũ mà đậm nét sáng tạo gây hiệu quả không ngờ. Chẳng hạn như cảnh toàn tiểu đội khai báo tài sản và ước vọng trong trận chiến cuối trước lúc hy sinh.
Những liên tưởng xót xa với thực tế hôm nay và người xem càng thấy rõ hơn nỗi mất mát vô cùng lớn của thế hệ cha anh vì độc lập thống nhất của dân tộc, để thấy cái giá của hòa bình lớn đến nhường nào.
Đèn sáng, vở diễn kết thúc, ngắm nhìn những diễn viên bên chân dung thật của 10 cô gái TNXP Ngã ba Đồng Lộc, nước mắt tôi chảy tràn. Có cảm giác tôi cũng như các khán giả giống như người trong cuộc chứ không phải đang xem một vở kịch.
Đây có lẽ là thành công lớn nhất của đạo diễn Lê Quý Dương. Anh đã bỏ nhiều thời gian thâm nhập tư liệu và thực tế chiến trường xưa, rất kỳ công và thành kính khi chở 7 tấn đất ở địa linh Đồng Lộc mang về phục vụ vở diễn.
Đạo diễn Lê Quý Dương đã mạo hiểm với sự sáng tạo này đúng như anh nói: “Tôi cảm giác sáng tạo đang đi qua tôi chứ không phải đi từ tôi”. Có thể cảm giác này hướng vào tố chất tâm linh đã được anh định hướng từ đầu. Từ việc chọn sân khấu trong Bảo tàng Phụ nữ đến hình thức loại thể kịch thực chứng và tất cả những gì liên quan.
Thêm một chi tiết hay, nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến từng mang từ Đồng Lộc vỏ quả bom 250kg về nhà ở Hà Nội, khi biết tin Lê Quý Dương dàn dựng vở kịch đã tặng lại dùng làm đạo cụ thật. Một sự cộng hưởng đáng quý mang lại thành công cho vở diễn.
Huyền thoại tuổi thanh xuân được công diễn lần đầu vào 20/10/2023 và đến hôm nay vở kịch đã ra mắt được tròn năm với hơn 30 suất diễn vào mỗi cuối tuần ở Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Thật sự ý nghĩa bởi bên cạnh những hiện vật về người phụ nữ Việt Nam thì vở diễn chính là “bảo tàng sống” cho những thế hệ sau nhất thực chứng và đón nhận.
Ảnh: NVCC