Hơn 10 năm qua, phong trào “Dân vận khéo” đã đạt được hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực. Chăm lo lợi ích hợp pháp chính đáng, phát huy quyền làm chủ của đoàn viên, hội viên, nhân dân, gắn công tác dân vận với các phong trào thi đua, các cuộc vận động… Phong trào “Dân vận khéo” đã xuất hiện nhưng mô hình, điển hình tiêu biểu như : “Ngày thứ 6 dân nói” ở Đồng Tháp, phong trào “xứ đạo bình yên - gia đình văn hóa” ở Nam Định, “Xây dựng khu, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp an toàn về an ninh trật tự”, “Xây dựng xã không có tội phạm về tệ nạn ma túy” ở Thanh Hóa, là những điểm sáng trong phong trào thi đua dân vận khéo góp phần xây dựng mối quan hệ tích cực giữa chính quyền và nhân dân.
“Dân vận khéo” việc gì cũng thành công
Trong tác phẩm “Dân vận”, Bác Hồ đặt câu hỏi: “Ai phụ trách dân vận” và Người khẳng định: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt minh, v.v) đều phải phụ trách dân vận”. Bác cho rằng Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, thấm nhuần lý tưởng chính trị vì dân thì làm công tác dân vận mới thực sự có hiệu quả. Người từng nói: “Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Vì vậy khi bàn về phẩm chất và phong cách người cán bộ dân vận Bác Hồ đã đúc kết thành 12 từ: “óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”.
Các cấp hội tích cực tiếp sức phong trào xây dựng NTM. Ảnh minh họa. Quốc Tiến |
Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu, Hồ Chí Minh muốn khẳng định, công tác dân vận không chỉ là những thao tác cụ thể, những công thức có sẵn mà bản thân nó là một khoa học - khoa học về con người, một nghệ thuật - nghệ thuật tiếp cận và vận động con người. Đó là tầm cao trí tuệ của người làm công tác dân vận. Cho nên phải dày công tìm tòi suy nghĩ để phân tích chính xác tình hình nhân dân, vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để vận dụng vào thực tiễn vận động nhân dân có hiệu quả. Muốn vậy, hoạt động dân vận phải coi trọng khả năng tuyên truyền, giáo dục, thu phục, thuyết phục quần chúng; khả năng nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của nhân dân để tham mưu, đề xuất cho Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách hợp lòng dân, đồng thời kịp thời ngăn chặn mặt tiêu cực phát sinh trong quần chúng nhân dân, góp phần thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Mắt trông, tai nghe, chân đi” là yêu cầu người làm công tác dân vận cần sát cơ sở, sát thực tế, đến với nhân dân để lắng nghe và hiểu tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; biết loại trừ những thông tin nhiễu, thiếu chân thực, không khách quan, không đúng sự thật mà giúp dân giải quyết các công việc cụ thể, đề xuất hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp. Đồng thời, tiến hành công tác dân vận tuyệt đối không được quan liêu, hành chính nặng về làm việc theo kiểu giấy tờ, chỉ ngồi nghe điện thoại, nhận báo cáo rồi nhận định, phán xét chủ quan... dẫn tới tô vẽ, thổi phồng thành tích; nghe dân nói, nhưng không theo đuôi quần chúng mà phải biểu thị được thái độ vừa cầu thị, vừa định hướng, dẫn dắt, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và địa phương.
“Miệng nói, tay làm” là phong cách quan trọng nhất hiện nay của người làm công tác dân vận. Vì vậy, “phải thật thà nhúng tay vào việc”, thường xuyên có trách nhiệm tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh... không được nói một đằng, làm một nẻo, miệng thì vận động người khác nhưng mình thì không làm hoặc làm ngược lại.
Đối lập với tác phong “miệng nói, tay làm” là lối “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”, tức là nói mà không làm và nếu có làm thì chỉ làm theo lối quan liêu “bàn giấy”. Theo Người: “Cái lối làm việc như vậy rất có hại. Nó làm cho chúng ta không đi sát phong trào, không hiểu rõ được tình hình bên dưới, cho nên phần nhiều chủ trương của chúng ta không thi hành được đến nơi đến chốn”. Theo Hồ Chí Minh, người làm dân vận phải thật thà “nhúng” tay vào việc, tức là làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động, cùng chiến đấu, lăn vào cuộc sống hằng ngày của nhân dân, coi trọng hiệu quả công việc, lấy hiệu quả của công việc làm thước đo, mục đích của công tác dân vận. Nếu “chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” thì làm sao hiểu được dân, làm sao “vận” được dân, làm sao để dân có tự do, hạnh phúc thật sự.
Xây dựng đội ngũ những người làm công tác dân vận phù hợp tình hình mới
Để xây dựng đội ngũ những người làm công tác dân vận hiện nay cần phải tập trung bồi dưỡng những phẩm chất năng lực sau đây:
Một là, cán bộ dân vận phải có trí tuệ, bởi khi đã xác định công tác dân vận vừa là khoa học, vừa là chính trị, nghệ thuật, trong thời đại khoa học, công nghệ, kỹ thuật tiến như vũ bão thì chuẩn mực về trí tuệ đặt lên hàng đầu là rất cần thiết để họ có đủ sức tìm tòi, nghiên cứu, suy nghĩ, tư duy thấu đáo mới phát hiện và giải quyết những vấn đề đặt ra, giải quyết thấu đáo góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Hai là, cán bộ dân vận phải có uy tín, giỏi tuyên truyền, thuyết phục. Uy tín là phẩm chất hàng đầu của người làm công tác dân vận. Để được nhân dân hiểu, tin tưởng và làm theo thì nhất định người cán bộ làm công tác dân vận phải có uy tín. Uy tín của người làm công tác dân vận, nhất là cán bộ ở cơ sở hằng ngày tiếp xúc, giải quyết công việc trực tiếp với nhân dân lại càng quan trọng. Đồng thời, giỏi tuyên truyền, thuyết phục cũng là phẩm chất không thể thiếu của cán bộ làm dân vận. Cần thuyết phục bằng cả lời nói và việc làm, phải thống nhất trong nhận thức và hành động. Phải nâng cao khả năng dùng ngôn ngữ phù hợp với địa phương, vùng miền, dân tộc; phải hiểu được ít nhiều ngôn ngữ địa phương mới có thể vận động, thuyết phục nhân dân có hiệu quả.
Ba là, cán bộ dân vận phải có tác phong quần chúng. Phải “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Có trọng dân thì người cán bộ mới thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ của nhân dân; mới đến với dân như người thầy, người chủ của mình. “Gần dân” là đòi hỏi khách quan của người cán bộ dân vận. Những người có phong cách gần dân sẽ tránh được căn bệnh quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh; mới hiểu được cuộc sống tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân và mới tham mưu đúng, trúng cho cấp ủy đảng, chính quyền những chủ trương, chính sách phù hợp với lòng dân. Muốn “học dân” thì người cán bộ phải thực sự biết lắng nghe, khiêm tốn, cầu thị.
Bốn là, cán bộ dân vận phải biết nêu gương. Người yêu cầu cán bộ phải gương mẫu, cùng với nhân dân thực hiện công việc, đồng thời phê phán “bệnh nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh”, nói không đi đôi với làm, ít đi cơ sở, thiếu sâu sát nhân dân của một số cán bộ, trong đó có cán bộ làm công tác dân vận.
Phải đưa cán bộ làm công tác dân vận vào rèn luyện, trưởng thành từ phong trào quần chúng, được nhân dân tín nhiệm, tin yêu. Bởi người cán bộ dân vận có từ nhân dân mà ra, có lăn lộn “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói” với dân, có trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin, dân yêu... mới có “chiếc chìa khóa” đi vào lòng dân - nhân tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận. Ðó cũng là một trong những yếu tố để thực hiện tốt việc “dân vận khéo”. Mà “dân vận khéo” thì việc gì cũng thành công, từ đó mà tích lũy cho mình được nhiều kinh nghiệm quý, giúp ích cho công tác dân vận của mình.
Thực hiện công tác dân vận, dưới sự lãnh đạo của Đảng, con thuyền cách mạng của dân tộc ta đã và đang vượt qua thác ghềnh tiến về phía trước, hướng tới phồn vinh. Tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc sáng soi đường chỉ lối.
Quốc Tiến