Phòng, chống mua bán người là nhiệm vụ trọng tâm

Theo báo cáo của Bộ Công an, từ ngày 1/1/2012 đến 30/8/2020, tổng số tin báo, tố giác và kiến nghị khởi tố về tội phạm mua bán người là 1.162 tin, 100% đã được xác minh, xử lý. Về điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, từ ngày 1/1/2012 đến 30/8/2020, tổng số vụ án về mua bán người được khởi tố là hơn 1.400 vụ với 2.500 bị can.

Riêng 6 tháng đầu năm 2021, cả nước phát hiện 29 vụ/43 đối tượng phạm tội mua bán người; giải cứu, tiếp nhận, hỗ trợ 56 nạn nhân. Các vụ án về mua bán người đều được Viện Kiểm sát kiểm sát theo quy định, đạt tỷ lệ 100%.

Nhìn nhận tình hình tội phạm mua bán người liên tục có những diễn biến phức tạp, Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương ở Việt Nam luôn coi công tác phòng, chống mua bán người là một nhiệm vụ trọng tâm, triển khai quyết liệt bằng nhiều giải pháp.

{keywords}
Tổ chức ký cam kết không tham gia, không tiếp tay cho hoạt động mua bán người, mua bán con ở huyện Kỳ Sơn (Nghệ An).

Theo đó, Việt Nam đã triển khai Chương trình 130/CP (Chương trình phòng, chống mua bán người của Chính phủ) và Luật Phòng, chống mua bán người. 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện Chương trình 130/CP, lồng ghép với việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội.

Một loạt các văn bản dưới Luật cũng đã được ban hành nhằm trừng trị nghiêm khắc tội phạm mua bán người, đồng thời có các giải pháp hỗ trợ, bảo vệ nạn nhân.

Về hợp tác đa phương, Việt Nam là thành viên Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (TOC), Công ước ASEAN về phòng, chống mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, Nghị định thư về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung cho Công ước TOC. Việt Nam cũng tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự - thỏa thuận liên chính phủ đầu tiên về di cư.

Trong hợp tác song phương, Việt Nam tiếp tục triển khai có hiệu quả các hiệp định hợp tác với Campuchia, Lào, Thái, Trung Quốc và Anh về phòng, chống mua bán người. Trong đó duy trì họp thường niên với cơ quan thực hiện hiệp định, phối hợp tổ chức các đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm mua bán người.

Việt Nam cũng đang thực hiện các dự án hợp tác trong khuôn khổ Chương trình ASEAN-ACT do Chính phủ Australia tài trợ. Ngoài ra, Việt Nam thường xuyên trao đổi về chủ trương, thành tựu của Việt Nam trong phòng chống mua bán người tại Đối thoại nhân quyền với EU, Australia... cũng như các buổi làm việc định kỳ với một số cơ quan đại diện nước ngoài tại Hà Nội.

Về hỗ trợ nạn nhân bị mua bán, theo Bộ LĐTB&XH, đến nay, cả nước có 425 cơ sở trợ giúp xã hội, trong đó 195 cơ sở công lập và 230 cơ sở ngoài công lập thuộc các loại hình cơ sở trợ giúp xã hội. Từ năm 2011 đến tháng 6/2020 đã tổ chức tiếp nhận, hỗ trợ cho hơn 7.300 nạn nhân. 100% nạn nhân bị mua bán sau khi tiếp nhận được lực lượng chức năng công an, bộ đội biên phòng, chính quyền địa phương phối hợp bảo vệ, thực hiện dịch vụ hỗ trợ học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý… để nạn nhân nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng.

Trong công tác truyền thông, giáo dục phòng ngừa, các bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, địa phương đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh công tác truyền thông về phòng, chống mua bán người trên các phương tiện thông tin đại chúng và trực tiếp tại cộng đồng với những hình thức, biện pháp phong phú, đa dạng, đặc biệt là hưởng ứng Ngày toàn dân phòng, chống mua bán người (30/7)

Hệ thống pháp luật cần đồng bộ hơn

Mặc dù đã xây dựng và ban hành được khung pháp lý cơ bản để phòng chống tình trạng buôn bán người, tuy nhiên so với tình hình thực tiễn, vẫn cần phải bổ sung hệ thống pháp luật đồng bộ hơn.

Theo đó, các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về phòng, chống mua bán người hầu hết được ban hành đã 5 - 6 năm, nên nhiều quy định không còn phù hợp với tình hình, điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay.

Bên cạnh đó, việc xác định nạn nhân theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật để họ hưởng các chế độ hỗ trợ hiện chưa phù hợp với thực tiễn. Có nhiều người bị hại, bị mua bán xảy ra đã lâu, không thể nhớ chính xác sự việc nên không xác định được đối tượng chủ mưu, thực hiện hành vi mua bán và cơ quan có thẩm quyền không thể chứng minh họ là nạn nhân trong các vụ mua bán người. Trong khi đó, các đối tượng trong thời gian chờ xác minh là nạn nhân cũng cần được hưởng các chế độ hỗ trợ như nạn nhân và thực tế các cơ quan chức năng đã hỗ trợ như nạn nhân, nhưng khi xác minh họ không đủ điều kiện xác định là nạn nhân, dẫn đến khó khăn về chi trả kinh phí đã thực hiện. 

Hơn nữa, Luật hiện hành chỉ quy định nạn nhân được hỗ trợ về tâm lý trong thời gian cư trú tại cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Trong khi đó, nhiều nạn nhân trở về với những sang chấn về mặt tâm lý, hoảng loạn, lo lắng bị trả thù sau khi cung cấp thông tin cho công an, bộ đội biên phòng, cảnh sát biển... hoặc khi trở về địa phương bị kỳ thị, xa lánh, rất cần được hỗ trợ tâm lý.

Hay như các quy định chỉ có nạn nhân thuộc hộ nghèo mới được xem xét hỗ trợ văn hóa, học nghề, trợ cấp khó khăn ban đầu. Mức chi hỗ trợ khó khăn ban đầu cho nạn nhân còn thấp (1 triệu đồng/người), chưa bảo đảm cuộc sống khi về địa phương hòa nhập cộng đồng. Các quy định về trình tự, thủ tục nhận hỗ trợ chưa cụ thể, thống nhất...

Bích Thủy