Tôi đã tham khảo các thông tin, dữ liệu về hồ Ka Pét, lắng nghe nội dung buổi họp báo của lãnh đạo tỉnh Bình Thuận vừa qua. Đúng là còn nhiều vấn đề cần tiếp tục phải được làm rõ để thuyết phục công luận và người dân.
Nước và rừng có mối liên hệ hữu cơ gắn bó hai chiều không thể tách rời, chúng đều là các tài nguyên tái tạo. Nước có tính chất "động - chuyển tải" cao hơn, là nguồn sống của muôn loài động và thực vật; còn rừng là bộ phận kết cấu hạ tầng sinh thái của đất, nước.
Lời nguyền tài nguyên có câu “ăn của rừng rưng rưng nước mắt” ngẫm suy thật chuẩn xác vì đó là cái giá phải trả do đối xử tệ hại với môi trường sinh thái tự nhiên.
Cơ sở pháp lý
Dự án hồ chứa nước Ka Pét thuộc danh mục dự án quan trọng quốc gia được Quốc hội khóa XIV quyết định chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 93/2019/QH14 do có phát sinh tiêu chí chuyển đổi rừng đặc dụng.
Dự án được điều chỉnh một số nội dung chủ trương đầu tư tại Nghị quyết của Quốc hội khóa XV số 101/2023/QH15 ngày 24/6/2023.
Nhiệm vụ của hồ chứa nước Ka Pét là cung cấp nước tưới cho 7.762 ha đất nông nghiệp, cấp nước thô 2,63 triệu m3/năm cho khu công nghiệp và cấp nước thô cho sinh hoạt của khoảng 120.000 người dân.
Tổng diện tích sử dụng đất của dự án là 697,73 ha; trong đó diện tích đất lâm nghiệp là 679,62 ha, bao gồm: 137,95 ha rừng đặc dụng, 0,51 ha rừng phòng hộ; 440,4 ha rừng sản xuất; 40,72 ha rừng nằm ngoài quy hoạch 3 loại rừng, đất không có rừng là 60,14 ha và diện tích sản xuất nông nghiệp là 18,01 ha.
Việc xây dựng dự án hồ chứa nước Ka Pét là phù hợp với quy hoạch tỉnh và quy hoạch vùng Đông Nam bộ. Thời gian thực hiện dự án từ 2019 đến 2025.
Nhìn sơ đồ thấy vị trí hồ Ka Pet rất xa khu hưởng lợi, nước sẽ xả xuống sông Ba Bích để chảy xuống đập dâng dưới hạ lưu.
Nguyên lý của bài toán “được và mất”
Do dân số ngày càng tăng, bắt buộc con người phải khai thác tài nguyên để phát triển kinh tế xã hội. Ngay các nước tiên tiến, họ cũng luôn thấm nhuần nguyên lý của bài toán “trade-off” - đánh đổi giữa hiệu quả kinh tế với bảo vệ môi trường, làm sao để cái được là lớn nhất, cái mất là ít nhất và có các biện pháp giảm thiểu các tác hại đến môi trường sinh thái.
Rừng tự nhiên có vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái, đa dạng sinh học, kiểm soát khí hậu, lọc không khí, giá trị về kinh tế và liên quan đến văn hoá của cộng đồng bản địa.
Chúng ta có thể hiểu mọi thứ đều có giá của nó, con người phải đối mặt với sự đánh đổi liên quan đến lợi ích và tổn thất.
Vì vậy trong quá trình ra quyết định, ta thường so sánh giữa chi phí và lợi ích của các cách hành động khác nhau. Cái khó ở đây là trong nhiều trường hợp, chi phí của một số hành động không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận diện như khi mới quan sát bề ngoài.
Các câu hỏi cần làm rõ
Thực tế đã chứng minh hệ thống công trình thuỷ lợi ở nước ta là giải pháp hữu hiệu nhất góp phần to lớn trong việc trị thuỷ, phòng tránh thiên tai và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Ở Ninh Thuận và Bình Thuận, nhờ có các hồ thủy lợi như Sông Sắt, Sông Than, Tân Giang, Cà Giây... mà các vùng đất này đã thay đổi cơ bản về cảnh quan và môi trường.
Tuy nhiên, một số hồ chứa nước xây dựng theo cách tiếp cận truyền thống, chưa quan tâm đúng mức đến cách tiếp cận lợi ích tổng hợp cho nên hiệu quả thấp, để lại bài học đắt giá. Các hồ chứa nước Iamor ở Gia Lai và Đắc Lắc, hồ chứa Bản Mồng ở Nghệ An, ... là ví dụ.
Cần biết rằng diện tích lưu vực sông Cà Ty chưa đầy 800 km2 cho nên nguồn nước cho phát triển trong tương lai cần chuyển nước về từ hồ La Ngà 3 (350 triệu m3, đang được Bộ NN&PTNT chuẩn bị đầu tư).
Vì thế, khi nghiên cứu dự án hồ chứa nước Ka Pet phải kể đến sự có mặt của hồ La Ngà 3 đang có nhiệm vụ chính là tạo nguồn, để chuyển nước qua lưu vực của sông Cà Ty về hồ Ka Pét.
Hồ Ka Pét làm nhiệm vụ bổ sung nước cho các khu vực hưởng lợi của các hệ thống hồ đã xây dựng, như hồ sông Móng, Ba Bàu,... cho nên việc quan trọng là phải rà soát lại thực tế vận hành sử dụng nước hiện nay và tương lai của các hệ thống này.
Ngày nay, sản xuất đã thay đổi theo hướng thích nghi (không tưới lúa nhiều như ban đầu) đồng thời các công nghệ tưới tiết kiệm đã làm giảm nhu cầu dùng nước. Một khi xác định được chính xác lượng nước cần bổ sung thì mới xét đến các giải pháp bổ sung nước.
Nếu nhu cầu bổ sung nước là chính xác thì cần cân nhắc giữa việc xây dựng hồ Ka Pét hay sử dụng dung tích của hồ La Ngà 3 (vẫn còn kịp điều chỉnh dự án này), khi đó chỉ cần tuyến ống vài chục km là có thể chuyển nước hồ La Ngà 3 sang đầu nguồn sông Bà Bích mà không cần hồ trung gian.
Nếu cương quyết làm hồ Ka Pét thì có thể chia các giai đoạn để đầu tư. Nếu sau này khi có hồ La Ngà 3 tiếp nước sang hồ Ka Pét hoặc có giải pháp công trình tưới trực tiếp cho khu tưới hồ Ka Pét thì có thể giảm quy mô hồ để ảnh hưởng ít nhất đến môi trường do phá rừng tự nhiên.
Hội đồng đánh giá báo cáo tác động môi trường ĐTM là rất quan trọng khi thẩm định hiệu ích của công trình này.
Lời kết
Người dân Nam Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận đa phần là dân nghèo; đất đai của họ chịu khô hạn thường xuyên, rất cần nguồn nước.
Vấn đề là khi làm công trình tạo nguồn nước làm sao phải cân đối hài hoà giữa đảm bảo lợi ích kinh tế và bảo vệ môi trường.
Báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) cần được Bộ Tài nguyên và Môi trường phê duyệt sớm. Nên mời nhóm chuyên gia độc lập có trình độ chuyên môn, am hiểu thực tế và bản lĩnh tham gia cùng Hội đồng hoặc mời họ phản biện rà soát đánh giá lại về việc xây dựng hồ Ka Pét coi như đối chứng để yên lòng dân.
Trong thời đại ngày nay, người lãnh đạo biết phân tích và lắng nghe ý kiến khác nhau trong mọi quyết định là người lãnh đạo sáng suốt và khôn ngoan, luôn đem lại hiệu quả và lợi ích cho xã hội; ngược lại, dễ gây ra những hậu quả nghiêm trọng mà có muốn cũng không làm lại được.
Phản ứng trong truyền thông chính sách của lãnh đạo tỉnh Bình Thuận đối với dự án hồ Ka Pét như vậy là khá tích cưc, chủ động và phần nào giúp giải tỏa được dư luận.
Tô Văn Trường