Theo quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, Trường ĐH Sư phạm TPHCM có quy mô đào tạo sư phạm lớn nhất cả nước với 22.000-24.000 giáo viên. PV VietNamNet có cuộc trao đổi với GS.TS Huỳnh Văn Sơn, Hiệu trưởng nhà trường xung quanh việc đào tạo sư phạm.

Thưa ông, với cơ sở vật chất như hiện tại, Trường ĐH Sư phạm TPHCM có đảm bảo mở rộng quy mô đào tạo theo quy hoạch Chính phủ đặt ra?

- GS.TS Huỳnh Văn Sơn: Chúng tôi tự tin đảm bảo mở rộng quy mô đào tạo dựa trên nền tảng cơ sở vật chất hiện có và kế hoạch phát triển trong tương lai. Trường đang sở hữu 5 cơ sở tại TPHCM, 1 tại Bình Dương và 2 phân hiệu ở Long An (năm 2024) và Gia Lai (năm 2025). Nhà trường nhận thức rõ tầm quan trọng của cơ sở vật chất trong nâng cao chất lượng đào tạo, vì vậy luôn chú trọng đầu tư, phát triển.

Trong chiến lược phát triển dài hạn, trường tuân thủ và thực hiện chủ trương chung của Bộ GD-ĐT về việc mở rộng mạng lưới cơ sở đào tạo. Nhà trường đã xây dựng kế hoạch chi tiết phát triển thêm các phân hiệu ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ, góp phần đáp ứng nhu cầu đào tạo giáo viên ở các vùng kinh tế lớn cũng như các khu vực biên giới, hải đảo.

Trường Đại học Sư phạm TPHCM đang đào tạo đa ngành, khi tăng quy mô sư phạm, những ngành ngoài sư phạm sẽ như thế nào, thưa ông?  

- Chiến lược của nhà trường là đào tạo đa ngành. Việc phát triển ngoài ngành sư phạm nhằm khai thác tối đa tiềm lực của nhà trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Tôi nghĩ sự phát triển của các ngành sư phạm sẽ tạo đà cho sự phát triển của các ngành ngoài sư phạm bởi đào tạo cần cái nhìn tổng hòa và tạo dư địa. Thực tế khi cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên của trường được tăng cường để đáp ứng quy mô đào tạo sư phạm cũng mang lại lợi ích cho các ngành ngoài sư phạm.

Trong 5 năm qua, chúng tôi đã mở nhiều ngành đào tạo phục vụ cho yêu cầu triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018, cùng với nhiều ngành học đang là xu hướng, có nhu cầu việc làm cao như du lịch, sinh học ứng dụng. Nhà trường đang hoàn thiện các thủ tục để tuyển sinh và đào tạo 2 ngành học mới ở bậc đại học gồm toán ứng dụng và công nghệ giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

Tôi muốn nhấn mạnh, mô hình đào tạo giáo viên ở Việt Nam không đóng kín. Sinh viên các ngành ngoài sư phạm đều có cơ hội trở thành giáo viên sau khi học nghiệp vụ sư phạm - đây là cơ hội khá rộng mở.

Cùng với việc tăng quy mô đào tạo sinh viên, nhà trường sẽ làm gì để tăng chất lượng giảng viên, đội ngũ? 

- Hiện nay nhà trường đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, đầu tiên là chuẩn bị về nhân lực chất lượng cao, có trình độ chuyên môn, tâm huyết với nghề. Trường có trên 42% giảng viên có trình độ tiến sĩ, phấn đấu đạt 45% và 50% theo lộ trình.

Chúng tôi tạo điều kiện cho giảng viên, cán bộ tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước, nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ; đồng thời tuyển dụng giảng viên có chuyên môn cao, kinh nghiệm thực tiễn và tâm huyết với nghề.

Ngoài ra, chúng tôi đẩy mạnh hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước, tổ chức các chương trình trao đổi, giúp giảng viên tiếp cận với kiến thức và phương pháp giảng dạy tiên tiến; tự đào tạo và bồi dưỡng, đảm bảo chất lượng nội bộ…

Tăng quy mô đào tạo nhưng giải pháp nào để vẫn đảm bảo chất lượng đầu ra, thưa ông?

- Với trách nhiệm của một trường đại học sư phạm trọng điểm quốc gia, được quy hoạch quy mô lớn, nhà trường nhận thức sâu sắc về việc đảm bảo chất lượng đầu ra.

Nhà trường thường xuyên rà soát, đánh giá và cải tiến chương trình đào tạo, đảm bảo tính khoa học, thực tiễn, phù hợp với yêu cầu của xã hội và xu hướng phát triển của ngành; đồng thời tăng cường các hoạt động thực hành, thực tập, giúp sinh viên có cơ hội áp dụng kiến thức vào thực tế, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp. Trường cũng tăng cường kiểm soát chất lượng, đảm bảo quá trình đào tạo diễn ra đúng quy trình, quy định, đánh giá đúng năng lực sinh viên.

Trường đánh giá kết quả đào tạo theo chuẩn đầu ra từ năm 2019 và tiếp tục cải tiến đồng bộ để không ngừng nâng cao chất lượng. Trường cũng tích cực đánh giá dữ liệu từ các bên có liên quan để đảm bảo cải tiến công tác tổ chức đào tạo, thực hành, thực tập, khởi nghiệp…

Theo ông, đào tạo giáo viên hiện nay gặp những khó khăn gì?

- Việc đào tạo bất kỳ ngành nghề nào hiện nay cũng nhiều thách thức bởi đó là đào tạo con người, đào tạo người chủ của công việc và thỏa mãn các yêu cầu khởi nghiệp, sáng tạo, linh hoạt, thích ứng.

Với đào tạo giáo viên hiện nay, một trong những vấn đề đáng quan tâm là sự phát triển không ngừng của công nghệ và sự thay đổi nhanh chóng của xã hội đặt ra yêu cầu cao hơn đối với năng lực của người học. Cơ sở đào tạo giáo viên phải cung cấp cho sinh viên sư phạm những điều kiện tốt nhất để phát triển các năng lực phù hợp, đặc biệt là khả năng ngoại ngữ và công nghệ. Các chương trình đào tạo cần được cập nhật thường xuyên, tích hợp những kiến thức và kỹ năng về công nghệ thông tin, phương pháp giảng dạy hiện đại, khả năng sáng tạo và giải quyết vấn đề, nhất là tính linh hoạt, thích ứng.

Ông nghĩ sao về thực tế cả nước đang thiếu hàng trăm nghìn giáo viên, nhưng nhiều sinh viên tốt nghiệp ngành sư phạm lại không xin được việc và có nhiều giáo viên xin nghỉ việc hoặc chuyển nghề?

- Vấn đề này cần xem xét ở tầm vĩ mô và phải có những dữ liệu cụ thể, bởi ngay từ “thiếu” cũng chưa hẳn là chuẩn xác vì thiếu được hiểu thế nào từ góc độ làm nghề hay biên chế hay chuẩn mong đợi hoặc khác nữa. Tuy nhiên, có thể giải thích vấn đề này qua một số khía cạnh. Thứ nhất, có sự thiếu thừa cục bộ theo từng vùng, từng khu vực. Nhu cầu giáo viên không đồng đều trên cả nước. Có những vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, đang thiếu giáo viên. Thiếu ở đây nhiều nghĩa, nhưng chủ yếu là làm việc chính thức, biên chế; chuẩn giáo dục… chứ không hoàn toàn thiếu người dạy trẻ em, học sinh.

Thứ hai, có sự khác biệt giữa nhu cầu xã hội và mong muốn cá nhân của sinh viên tốt nghiệp sư phạm. Nhu cầu xã hội có thể tập trung vào một số môn học hoặc khu vực, trong khi sinh viên lại có xu hướng lựa chọn các môn học hoặc địa điểm làm việc. Điều này dẫn đến sự mất cân bằng giữa cung - cầu lao động.

Thứ ba, một số cải tiến về tuyển dụng, tìm việc, bố trí việc làm dù đang thực hiện nhưng vẫn cần thêm thời gian thúc đẩy để đảm bảo tính hiệu quả. Cụ thể, như nếu việc tuyển dụng và tài chính giao trực tiếp cho ngành, có thể giải quyết đáng kể các vấn đề đã nêu. Dĩ nhiên, chúng ta không thể cào bằng hay bỏ qua các vùng rất khó khăn, đặc thù trong cả nước…

Để giải quyết các vấn đề trên, cần có sự phối hợp đồng bộ từ các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ sở đào tạo giáo viên và các địa phương. Cần có những chính sách phân bổ giáo viên hợp lý, cải thiện điều kiện làm việc của giáo viên và tăng cường kết nối giữa các cơ sở đào tạo giáo viên và các địa phương, nhất là đào tạo giáo viên theo nhu cầu công khai, hiệu quả...

Những năm qua việc tuyển sinh sư phạm đã có chuyển biến như điểm chuẩn đầu vào cao, sinh viên được miễn học phí, cấp sinh hoạt phí… ông đánh giá như thế nào về chính sách này và có kiến nghị gì?

Trong những năm qua, công tác tuyển sinh đại học tuy có một số thay đổi nhưng cơ bản vẫn ổn định, tạo nhiều cơ hội cho thí sinh; ngưỡng đảm bảo chất lượng đối với ngành đào tạo giáo viên là 19 điểm (ở bậc cao đẳng là 17 điểm) nhưng thực tế điểm chuẩn đầu vào các ngành sư phạm khá cao - trên 24 điểm, có ngành trên 28 điểm, nhất là ở các cơ sở đào tạo giáo viên chủ chốt. Đây là những tín hiệu đáng mừng cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội đối với ngành giáo dục, cũng như sức hút ngày càng tăng của nghề giáo.

Điểm chuẩn đầu vào cao thể hiện chất lượng đầu vào của sinh viên sư phạm ngày càng được nâng cao. Đây sẽ là một thuận lợi lớn cho công tác đào tạo, các giảng viên có thể giảm thời lượng cung cấp lý thuyết, tăng thời lượng thực hành, trao nhiều cơ hội cho sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Điều này góp phần mang đến một đội ngũ giáo viên chất lượng cao trong tương lai.

Với việc miễn học phí và cấp sinh hoạt phí, tôi đánh giá đây là chính sách thiết thực, giúp giảm bớt gánh nặng tài chính cho sinh viên sư phạm, đặc biệt là sinh viên có hoàn cảnh khó khăn. Điều này cũng góp phần thu hút sinh viên giỏi, có năng lực vào ngành sư phạm, trở thành giáo viên rất tiềm năng.

Để công tác tuyển sinh sư phạm ngày càng hiệu quả, cần có sự tác động đồng bộ, và có vài điều cần quan tâm.

Thứ nhất, đẩy mạnh truyền thông, tư vấn hướng nghiệp để học sinh, sinh viên hiểu rõ hơn về ngành sư phạm, về cơ hội nghề nghiệp và những thách thức của nghề giáo.

Thứ hai, tăng cường sự liên kết giữa các trường sư phạm và cơ sở giáo dục phổ thông, mầm non để đào tạo sinh viên sát với yêu cầu triển khai giáo dục tại địa phương; vừa giúp địa phương có nhân sự phù hợp, vừa tạo cơ hội để sinh viên tìm được việc làm ngay sau khi tốt nghiệp.

Thứ ba, tiếp tục thực thi chính sách từ Nghị định 116 và rà soát những cải tiến về nghị định này vừa ban hành ngày 3/3/2025 sau một thời gian triển khai để đảm bảo tính hiệu quả.

Thứ tư, không ngừng giáo dục lòng yêu nghề, nhất là sự tâm huyết, chuyên nghiệp với nghề và không ngừng hoàn thiện năng lực nghề nghiệp với sự thay đổi liên tục của bối cảnh.

Thứ năm, tiếp tục khảo sát đồng bộ và dự báo nhu cầu đào tạo giáo viên ở từng tỉnh thành để có dữ liệu giải quyết hiệu quả các bài toán hệ thống về đào tạo giáo viên, chủ động với các phát sinh…