Đây là ý kiến của bà Nguyễn Ngọc Tuyết Trinh -Giám đốc đối ngoại và truyền thông L'Oreal Việt Nam, Phó Chủ tịch Hiệp Hội chống hàng giả VACIP tại diễn đàn “Thực trạng hàng giả, hàng nhái tại Việt Nam: Thách thức và giải pháp” vừa được Tổng cục Quản lý thị trường (Bộ Công Thương) tổ chức vào sáng nay (26/11) tại Hà Nội.
Bà Nguyễn Ngọc Tuyết Trinh cho biết, L'Oreal bắt đầu việc chống hàng giả vào năm 2008 khi thị trường Thủ đô tràn ngập các cửa hàng mang bảng hiệu L’Oreal chính hãng chỉ trong vòng một năm sau khi L’Oreal chính thức đến Việt Nam.
Diễn đàn “Thực trạng hàng giả, hàng nhái tại Việt Nam: Thách thức và giải pháp” |
Hàng giả chiếm lĩnh thị trường với thị phần lên đến 75% và trở thành nguồn cung cấp sản phẩm làm đẹp chủ lực cho người tiêu dùng. L’Oreal đã gửi công văn kêu cứu đến các cơ quan chính phủ.
Năm 2015, hàng giả lại được biến tướng sang hàng xách tay, bày bán công khai trên các trang mạng.
“Lấy ví dụ như thời điểm hiện tại, thị trường mỹ phẩm của L'Oreal tại Việt Nam gần như đang được thống trị bởi hàng xách tay và hàng giả đến hơn 60% (số liệu được dựa trên kênh phân phối trên cả 2 kênh online và offline). Việc quảng cáo cho hàng giả thậm chí xuất hiện công khai trên các trang báo mạng tin cậy, gây nhầm lẫn và thiệt hại đáng kể cho người tiêu dùng. Hàng mỹ phẩm thông qua đường hàng không hiện tại chính là nguồn hàng nhập lậu phổ biến”, bà Trinh cho hay.
Chính vì thế, bà Trinh kiến nghị cần xử lý hiệu quả nguồn hàng xách tay và hàng nhập lậu.
“Tôi thường xuyên chứng kiến tiếp viên và phi công của các đường bay có nguồn hàng nhập lậu chủ lực như Úc, Hàn Quốc, Nhật bản, Pháp, Đức… khi nhận hành lý tại băng chuyền, họ mang ra mỗi người 3-4 thùng hàng trong khi quy định hành lý chỉ khoảng 23kg. Phòng Cảnh sát kinh tế đã từng thực hiện việc kiểm tra các kho hàng xung quanh sân bay và bắt giữ lượng lớn hàng xách tay nhập lậu. Vì vậy, việc này cần ngăn chặn ngay cửa ngõ vào thị trường Việt Nam một cách quyết liệt và hiệu quả hơn từ chính lực lượng chống buôn lậu, đặc biệt là tại 2 sân bay quốc tế Nội Bài và Tân Sơn Nhất”, bà Trinh kiến nghị.
Tại diễn đàn, ông Nguyễn Tiến Đạt - Phó cục trưởng cục Nghiệp vụ quản lý thị trường (Tổng cục QLTT) nhấn mạnh, tình trạng vi phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng và xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là vấn đề gây bức xúc trong dư luận xã hội, tác động tiêu cực tới đời sống người dân, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và môi trường đầu tư, du lịch.
Các đối tượng vi phạm thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn và có sự tham gia của các đối tượng nước ngoài, được tổ chức ngày càng tinh vi.
“Để trốn tránh kiểm tra, kiểm soát, các đối tượng vi phạm có sự phân công chặt chẽ, hình thành các đầu mối chuyên cung cấp nguyên vật liệu, linh phụ kiện, đầu mối chuyên sản xuất các loại bao bì, tem, nhãn giả; hàng giả được sản xuất dưới dạng gia công sản phẩm chưa hoàn chỉnh ở một nơi, sau đó đặt gia công ở một nơi khác để lắp ráp, đóng gói thành phẩm; sau khi có đơn đặt hàng mới được gắn nhãn mác giả mạo nhãn hiệu, nguồn gốc xuất xứ hàng hóa và giao liền cho khách hàng đặt mua, sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó, không cất trữ chờ tiêu thụ;...”, ông Đạt cho hay.
Hơn nữa, tình trạng gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, kinh doanh hàng giả, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thông qua mạng internet ngày càng phổ biến và diễn biến phức tạp trong khi các chế tài xử lý vi phạm vẫn chưa được hoàn thiện.
“Thậm chí có trường hợp bán hàng tại Việt Nam nhưng cơ sở chính lại ở nước ngoài (server tại nước ngoài); trang web, cơ sở giới thiệu sản phẩm ở một nơi nhưng nơi xuất hàng lại ở nơi khác. Các đối tượng sản xuất, kinh doanh hàng giả ngay tại nhà ở, trong thôn xóm để trốn tránh, dễ tẩu tán tang vật nếu bị phát hiện, kiểm tra”.
Trong khi đó, việc kiểm tra, xử lý vi phạm về giả mạo xuất xứ gặp nhiều khó khăn, nhất là truy xuất nguồn gốc hàng hóa.
Bởi, nếu cơ quan thực thi không có có bằng chứng rõ ràng, không bắt quả tang hoặc giám định chất lượng thì việc phát hiện vi phạm là rất khó khăn, đặc biệt là đối với hàng nhập lậu sau khi đã được đưa qua các đường mòn, lối mở. Khi đã lưu thông trên thị trường, hàng giả mạo xuất xứ thường trà trộn cùng với hàng thật, hàng có xuất xứ rõ ràng, vì vậy, việc phát hiện vi phạm cũng gặp khó khăn. Đối với hàng hóa giả mạo xuất xứ không có doanh nghiệp chủ thể quyền rõ ràng thì càng khó khăn (chẳng hạn như hàng nông sản, hàng hóa nguyên liệu, hàng hóa giả mạo doanh nghiệp, địa chỉ không có thật,…).
Thượng tá Đỗ Đức Tạo - Phó trưởng phòng 11 thuộc Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, Bộ Công An (C03) cũng cho biết, trước đây đối tượng vi phạm thường chỉ là những người có trình độ dân trí thấp, thất nghiệp hoạt dộng nhỏ lẻ thì nay, đối tượng có xu hướng chuyển sang thành phần có trình độ nhận thức, học vấn, thậm chí có trình độ chuyên môn cao, hiểu biết chính sách, am hiểu nhu cầu thị trường và thường xuyên thay đổi phương thức, thủ đoạn để trốn tránh sự phát hiện, xử lý của lực lượng chức năng.
Việc xử lý các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hình sự gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Các văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự chặt chẽ, dẫn tới nội dung quy định trong một số văn bản còn mâu thuẫn, chồng chéo.
Mức xử phạt cao nhất cho hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ với hàng hóa công nghiệp là phạt tiền không quá 250 triệu đồng đối với giá trị hàng hóa vi phạm trên 300 triệu đồng, trong khi không quy định mức trị giá hàng hóa tối đa để xử lý hình sự.
Thực tiễn một vi phạm vừa có thể xử lý bằng biện pháp hình sự vừa có thể xử lý bằng biện pháp hành chính và thông thường các cơ quan thực thi pháp luật thường chọn hình thức xử lý hành chính vì thủ tục và quy trình xử lý đơn giản hơn rất nhiều, gây tác động xấu đến ý thức tuân thủ pháp luật.
D. Thùy