Trong một nghiên cứu mới đây của Grozier và Keene ở trường Hành chính công Kennedy thuộc Đại học Harvard (dưới sự hướng dẫn của GS. Lawrence và GS. Dapice, những người rất am hiểu Việt Nam), các tác giả đã chỉ ra rằng phát triển, nâng cao năng lực khu vực kinh tế tư nhân là cách tốt nhất để duy trì mô hình phát triển dựa vào FDI và xuất khẩu của Việt Nam.
Thực vậy, hiệu ứng lan tỏa trong chuyển giao công nghệ giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước đã không đạt được như kỳ vọng, như lý thuyết và thực tiễn từ nhiều quốc gia khác. Năng lực hấp thu hạn chế của doanh nghiệp trong nước đã không tạo được một hệ sinh thái doanh nghiệp bổ trợ đủ mạnh và bao phủ.
Kết quả là các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi giá trị rất thấp, sau một thời gian dài vẫn chủ yếu là gia công lắp ráp. Ngay cả một số lĩnh vực có tỉ lệ nội địa hóa được coi là cao thì đằng sau đó vẫn là doanh nghiệp nước ngoài.
Sự phát triển và lớn mạnh của hệ thống doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là tư nhân, sẽ tạo sự thay đổi lớn về chất trong thu hút FDI và xuất khẩu. Ảnh minh họa |
Sự phát triển và lớn mạnh của hệ thống doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là tư nhân, sẽ tạo sự thay đổi lớn về chất trong thu hút FDI và xuất khẩu theo cách tiếp cận như sau:
Thứ nhất, khả năng hấp thụ hàm lượng công nghệ cao của doanh nghiệp trong nước sẽ thu hút các FDI có chất lượng, tham gia vào phân khúc trên của chuỗi giá trị toàn cầu, như Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành vào tháng 8/2019.
Thứ hai, sự phát triển về chất của doanh nghiệp trong nước sẽ nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam, tạo thêm nhiều giá trị gia tăng. Quan trọng hơn, trình độ sản xuất trong nước phát triển sẽ thúc đẩy nhu cầu nhập khẩu các công nghệ, hàng hóa, dịch vụ từ các nước phát triển.
Một khi là đối tác nhập khẩu quan trọng của các nước phát triển thì việc trở thành đối tác xuất khẩu của các nước này cũng thuận lợi hơn rất nhiều, vì hiện nay Việt Nam đã có 13 FTA và 3 FTA đang đàm phán, trong số này đều có các nền kinh tế lớn của thế giới.
Việc thực thi chính sách cần đi vào thực chất, gắn liền với đánh giá hoàn thành nhiệm vụ chính trị hay quản lý nhà nước. Các chính sách cần tập trung vào những trọng điểm nhằm khơi thông tiềm năng, xóa bỏ những rào cản, chú trọng đến sự chuyển biến về chất. Theo người viết, có một số ưu tiên sau đây:
Một là, tiếp tục thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, hướng đến các doanh nghiệp có khả năng hấp thụ sự chuyển giao công nghệ, tham gia vào hệ sinh thái cùng với các doanh nghiệp FDI có chất lượng.
Trong quá trình phát triển của khu vực tư nhân, cần hạn chế sự tập trung vào một số ít tập đoàn vì nhiều khả năng bị rơi vào tình trạng lũng đoạn, thị trường bị bóp méo. Để được như vậy, cần xử lý và hạn chế mạnh tham nhũng, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đảm bảo tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật.
Hai là phát triển nguồn nhân lực trong nước thông qua đào tạo và các hoạt động nghiên cứu phát triển (R&D). Bên cạnh đó, cũng cần sử dụng hiệu quả mạng lưới những người có ảnh hưởng, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nhân ở nước ngoài ủng hộ vì sự phát triển thịnh vượng của Việt Nam.
Ba là cải thiện niềm tin của người dân, doanh nghiệp ở sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ. Niềm tin được củng cố theo thời gian, qua các hành động cụ thể vì lợi ích của người dân, của doanh nghiệp, của đất nước. Không thể tránh khỏi những sai sót trong ban hành chính sách hay thiếu mẫn cán trong việc thực hiện, nhưng với tâm thế cầu thị, vì lợi ích chung của người ban hành và thực thi chính sách thì niềm tin sẽ chuyển biến thành hành động ủng hộ.
Nền kinh tế Việt Nam sắp chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều bất định từ môi trường bên ngoài.
Hơn lúc nào hết, dựa vào nội lực để phát triển lúc này có thể nói là một lựa chọn tất yếu. Và cách tốt nhất để Việt Nam có thể tự cường là khơi thông những điểm nghẽn để phát triển doanh nghiệp tư nhân, nâng cao chất lượng lao động, cải thiện môi trường sống... bằng việc thực thi các chính sách một cách hiệu quả, thực chất, vì người dân, vì doanh nghiệp.
Hồng Hạnh, Hồng Khanh