- Tôi có người quen tên là T. vừa rồi làm ăn thua lỗ, nên đã nợ số tiền rất lớn. T. đã vay của một người khác số tiền 300 triệu đồng lấy lí do đáo hạn ngân hàng, bên cho vay yêu cầu phải có vợ cùng ký tên. T. đã thuê một người bạn học cùng phổ thông để ký hộ, trả cho người này một số tiền.
Sau khi sự việc bị phát hiện, T. được gia đình khuyên làm bản tường trình gửi công an địa phương. Đến nay, bên cho vay đòi kiện T. ra tòa vì tội chiếm đoạt tài sản. Xin hỏi luật sư, việc thuê người giả làm vợ ký nhận như vậy có phạm pháp không? Nếu có thì phạm tội gì, sẽ bị xử phạt ra sao. Rõ ràng T. không có ý không trả nợ mà chỉ thuê người kí hộ. Vậy trong trường hợp này người đó có được xem là đồng phạm không?
T. đã thuê người giả làm vợ để ký hợp đồng vay tiền (Ảnh minh họa) |
Thứ nhất: Việc thuê người khác giả chữ ký để vay tiền.
Câu hỏi bạn nêu T thuê người khác giả danh chữ kí của vợ để vay, nhưng chưa nói T có mục đích là sẽ trốn nợ khoản tiền không.
Nên trong trường hợp trên, bạn nói bên cho vay đã khởi kiện T về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cần phải xem xét T đã đủ dấu hiệu cấu thành để truy cứu về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 2009 chưa. Cụ thể Điều 139 Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi 2009 quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Để xác định một người có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không. Hành vi khách quan là chiếm đoạt; chiếm đoạt bằng thủ đoạn gian dối. T có sự lừa dối ngay từ khi giao kết hợp đồng vay tiền sau khi vay được tiền nhưng tình huống chưa nói rõ T có hành vi chiếm đoạt số tiền đó như (không trả lãi, cố tình không trả tiền khi người cho vay đòi lại…). Người phạm tội có lỗi cố ý, mong muốn chiếm đoạt được tài sản đó. Nếu hành vi của T có đủ yếu tố cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì sẽ căn cứ vào kết quả điều tra, truy tố, xét xử để đưa ra phán quyết đối với hành vi vi phạm.
Thứ 2: Hành vi của người được T thuê giả làm vợ để ký nhận vào giấy vay nợ. Nếu người phụ nữ này cố ý cùng T thực hiện một tội phạm thì theo quy định tại Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung 2009:
“Điều 20. Đồng phạm
1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.
2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.
Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.
Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.
3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.”
Nếu hành vi của T không nhằm mục đích chiếm đoạt thì đó là quan hệ dân sự trong hợp đồng vay, mượn tài sản. Bên cho vay có thể kiện đòi tài sản ra Tòa nếu T không trả nợ.
Tư vấn bởi Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội.
Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ [email protected] (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)
Ban Bạn đọc