- Bệnh viêm phổi có các thể rất nặng, diễn biến nhanh có thể gây tử vong nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Sau đây là các dấu hiệu viêm phổi ở trẻ em.
Ở trẻ bị viêm phổi thường gặp các triệu chứng thở nhanh, đây là dấu hiệu có giá trị chẩn đoán viêm phổi cao nhất. Theo tiêu chuẩn của WHO, trẻ dưới 5 tuổi thở nhanh như sau: nhịp thở từ 60 lần/phút trở lên đối với trẻ dưới 2 tháng tuổi; nhịp thở từ 50 lần/phút trở lên đối với trẻ 2 tháng - 12 tháng tuổi; nhịp thở từ 40 lần/phút trở lên đối với trẻ 1 - 5 tuổi. Cha mẹ hoặc người thân có thể đếm nhịp thở khi trẻ nằm yên hoặc khi ngủ và phải đếm trong 1 phút, muốn có kết quả chính xác thì đếm 2 - 3 lần.
Nếu trẻ bị viêm phổi nặng sẽ có dấu hiệu rút lõm lồng ngực. Để phát hiện dấu hiệu này cần nhìn vào phần dưới lồng ngực (1/3 dưới) lõm vào khi trẻ hít vào. Chú ý rằng, khi chỉ thấy phần mềm giữa xương sườn hoặc vùng trên xương đòn rút lõm thì không phải là dấu hiệu rút lõm lồng ngực. Mặt khác ở trẻ dưới 2 tháng tuổi nếu chỉ rút lõm lồng ngực nhẹ thì chưa có giá trị phân loại vì lồng ngực của trẻ nhỏ còn mềm, nên khi thở bình thường cũng có thể hơi bị rút lõm. Do đó ở những trẻ này rút lõm lồng ngực mạnh (lõm sâu và dễ nhìn thấy) mới có giá trị để chẩn đoán viêm phổi.
Triệu chứng thường gặp nữa là sốt cao. Triệu chứng thở khò khè có thể ở trẻ lớn bị viêm phổi do Mycoplasma. Song triệu chứng này cũng dễ nhầm với bệnh hen nếu không chụp X-quang phổi. Những triệu chứng phập phồng cánh mũi, thở rên, bú kém, kích thích và các bất thường khi khám phổi thay đổi phụ thuộc vào tuổi bệnh nhi và mức độ nặng của bệnh. Các triệu chứng như bỏ bú, thở rên, tím trung tâm có thể là những gợi ý của tình trạng thiếu oxy, nhưng các triệu chứng này không có độ nhạy và đặc hiệu cao. Vì vậy khi có điều kiện cần phải đo độ bão hoà oxy qua da cho bệnh nhi có biểu hiện suy hô hấp hoặc có vẻ bị bệnh nặng.
Việc chẩn đoán bệnh viêm phổi trẻ em cần dựa vào các triệu chứng lâm sàng nói trên và hình ảnh tổn thương trên phim chụp X-quang phổi. Căn cứ vào sự phân loại của Tổ chức Y tế thế giới đối với các mức độ viêm phổi gồm các thể: rất nặng, nặng và không nặng dựa vào các triệu chứng lâm sàng, thầy thuốc lâm sàng quyết định các biện pháp điều trị hỗ trợ như thở oxy, bù dịch và kháng sinh đặc hiệu.
Viêm phổi rất nặng với các biểu hiện: Trẻ có ho hoặc khó thở cộng với ít nhất một trong các triệu chứng chính là: tím tái, co giật, lơ mơ hoặc hôn mê; không uống được hoặc bỏ bú hoặc nôn ra tất cả mọi thứ; suy hô hấp nặng với biểu hiện đầu gật gù theo nhịp thở và co kéo cơ hô hấp phụ. Ngoài ra, có thể có thêm một số triệu chứng khác gồm: thở nhanh, phập phồng cánh mũi, thở rên, co rút lồng ngực; nghe phổi có thể thấy giảm rì rào phế nang, tiếng thổi ống, ran ẩm nhỏ hạt; tiếng cọ màng phổi.
Viêm phổi nặng: Trẻ ho hoặc khó thở và có ít nhất một trong các triệu chứng chính là: co rút lồng ngực, phập phồng cánh mũi; thở rên (ở trẻ dưới 2 tháng) và không có các dấu hiệu chính của viêm phổi rất nặng. Ngoài ra, trẻ cũng có thể có thêm một số các triệu chứng khác đã mô tả ở phần viêm phổi rất nặng.
Viêm phổi không nặng: Trẻ có ho hoặc khó thở và khó thở nhanh, trẻ dưới 2 tháng: nhịp thở khoảng 60 lần/phút; trẻ từ 2-12 tháng: nhịp thở khoảng 50 lần/phút; trẻ từ 12 tháng - 5 tuổi: nhịp thở khoảng 40 lần/phút; nhưng không có một trong các triệu chứng chính của viêm phổi nặng hoặc rất nặng. Nghe phổi có thể thấy ran ẩm nhỏ hạt.
VNN tổng hợp