Hấp dẫn bởi khí hậu trong lành và nét duyên dáng của miền đất lạ, bác sỹ Yersin đã đề nghị Toàn quyền Đông Dương xây dựng tại đây một trạm điều dưỡng trên núi nơi các quan chức và kiều dân Pháp nghỉ dưỡng mà không phải về chính quốc. Ngày 1/11/1899, Toàn quyền Đông Dương đã ký Nghị định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng.
Ngay từ khi mới thành lập, chính quyền thuộc địa đã tiến hành quy hoạch xây dựng và phát triển thành phố một cách bài bản, khoa học với tham vọng biến nơi đây thành một nước Pháp thu nhỏ miền nhiệt đới. Sau đó, rất nhiều những bản đồ án quy hoạch của các kiến trúc sư nổi tiếng được đưa ra.
Năm 1900, Paul Champoudry được bổ nhiệm làm Thị trưởng đầu tiên của Đà Lạt. Ông là người có kinh nghiệm vững chắc trong lĩnh vực quy hoạch đô thị sau nhiều năm làm việc tại Tòa thị chính Paris. Paul Champoudry đã khởi xướng xây dựng đồ án đầu tiên về đô thị hóa Đà Lạt vào năm 1906.
Năm 1919, O’Neill đã đề xuất một đồ án mới có tên gọi “Thành phố Đà Lạt - Bản sơ đồ chu vi đô thị với những chỉ dẫn về khu đất nhượng” hướng đến sự cân bằng lại về lãnh thổ nghiêng về khối dân sự. O’Neill dự kiến xây dựng Đà Lạt thành một thành phố vui chơi, giải trí. Trong năm này, chính quyền cho đào một cái hồ nhân tạo ngay giữa trung tâm thành phố (Hồ Xuân Hương ngày nay).

Từ chương trình phát triển năm 1900 của Toàn quyền Paul Doumer, Đồ án quy hoạch đầu tiên năm 1906 của Thị trưởng Champourdy áp dụng phương pháp phân khu chức năng, Đồ án quy hoạch năm 1919 của O’Neill; cho đến đồ án quy hoạch thành phố cảnh quan bài bản của KTS Hébrard năm 1923 làm rõ nét dấu ấn của Thành phố vườn.
Dựa trên nền tảng đó, những công trình kiến tạo có ý tứ, hòa nhập vào khung cảnh tự nhiên, đã tạo nên cảnh quan đô thị Đà Lạt giàu có phong phú với những di sản quý báu trong lĩnh vực quy hoạch và kiến trúc.
Đến năm 1923, KTS Hébrard hoàn tất công tác, đồ án được Toàn quyền phê duyệt và ban hành áp dụng vào tháng 8/1923, theo đó Đà Lạt sẽ là một thành phố nghỉ mát trên cao kiểu mẫu; thành phố được thiết kế theo quan điểm của các nguyên tắc về: “Quy hoạch thành phố vườn”. Lần đầu tiên các vấn đề phức tạp của đô thị Đà Lạt đã được nghiên cứu một cách tổng hợp và nhiều giải pháp có ý nghĩa định hướng phát triển thành phố đã được đề xuất.
Vấn đề bảo vệ, tôn tạo cảnh quan và bố cục không gian mỹ cảm cho thành phố, đã được tác giả quan tâm đặc biệt. Ý tưởng chính xuyên suốt là xây dựng một “Thành phố trong cây cỏ và cỏ cây trong thành phố”, với các mục tiêu tập trung bảo vệ thiên nhiên thông qua mở rộng mặt nước, thiết lập không gian xanh, khu bảo tồn rừng và xây dựng với mật độ thấp.
Trên một vùng thiên nhiên rộng lớn của cao nguyên Lâm Viên, KTS Hébrard bố trí thành phố trong một không gian vừa phải, khoảng 30 ngàn hecta. Đây là một diện tích hợp lý cho một thành phố vườn với quy mô dân số từ 30.000 đến 50.000 dân (lúc đó dân số Đà Lạt khoảng 1.500 người).
Dòng suối Cam Ly được chú ý tôn tạo một cách tích cực để trở thành một trục cảnh quan mặt nước hấp dẫn cho thành phố, với hệ thống các hồ nhân tạo lớn nhỏ có các tuyến đường dạo quanh, men theo sườn dốc nối kết liền lạc với nhau. Bố cục chính của thành phố nghỉ mát và thủ đô tương lai, được tổ chức quanh trục cảnh quan này, mỗi hồ là nhân của một phân khu chức năng.
Năm 1933, ông Pineau đưa ra đồ án quy hoạch mới đưa Đà Lạt hướng tới một dự án quy hoạch đô thị thực thụ, hòa nhập với môi trường.
Toàn quyền Jean Decoux ngay sau khi mới nhậm chức (1940) đã bắt tay thực hiện ý tưởng của các vị tiền nhiệm đó là biến Đà Lạt thành thủ đô hành chính Đông Dương. Ông đã giao cho kiến trúc sư Lagisquet - trưởng phòng kiến trúc và quy hoạch đô thị - thiết lập đồ án chỉnh trang và mở rộng Đà Lạt.
Thành phố Đà Lạt được quy hoạch và chỉnh trang theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 26/4/1943. Theo bản đồ quy hoạch, khu trung tâm Đà Lạt được chia thành 15 khu: Dinh Toàn quyền Đông Dương, Văn phòng, sòng bạc, khách sạn, trung tâm văn hóa và thư viện, ngân hàng, trung tâm thương mại châu Âu, nhà thờ, Sở cảnh sát, trung tâm hành chính địa phương, chợ, trung tâm thương mại bản ngữ, khách sạn thành phố, đạo (trụ sở của cơ quan quản lý bản xứ), rạp chiếu bóng.
Đến năm 1945, Đà Lạt đã trở thành một thành phố tuyệt đẹp của vùng Viễn Đông lúc bấy giờ.
Có thể nói, từ chương trình phát triển năm 1900 của Toàn quyền Paul Doumer, Đồ án quy hoạch đầu tiên năm 1906 của Thị trưởng Champourdy, Đồ án quy hoạch năm 1919 của O’Neill; cho đến đồ án quy hoạch thành phố cảnh quan bài bản của KTS Hébrard năm 1923 làm rõ nét dấu ấn của Thành phố vườn. Dựa trên nền tảng đó, những công trình kiến tạo có ý tứ, hòa nhập vào khung cảnh tự nhiên, đã tạo nên cảnh quan đô thị Đà Lạt giàu có phong phú với những di sản quý báu trong lĩnh vực quy hoạch và kiến trúc.