Chiều 26/8, TAND TP Hà Nội tuyên phạt cựu Chủ tịch Công ty Cổ phần chứng khoán Trí Việt Phạm Thanh Tùng 2 tỷ đồng về tội "Thao túng thị trường chứng khoán''.
Liên quan đến vụ án, 2 bị cáo Đỗ Thị Hồng Hạnh, Nguyễn Mạnh Thìn (đều là nhân viên của Công ty Cổ phần chứng khoán Trí Việt) bị tuyên phạt mỗi người 500 triệu đồng về cùng tội danh.
Trước đó, ông Phạm Thanh Tùng và đồng phạm bị truy tố tội danh theo điểm c, khoản 2, Điều 211, BLHS năm 2015. Đây là vụ án thứ 2 ông Tùng bị đưa ra xét xử về tội danh này.
Thời điểm tháng 4/2023, Cơ quan CSĐT - Công an TP Hà Nội (PC03) tiếp nhận tin báo tội phạm của Ủy ban chứng khoán nhà nước về vụ việc có dấu hiệu thao túng thị trường chứng khoán mã cổ phiếu TVB của Công ty Cổ phần chứng khoán Trí Việt trong khoảng thời gian từ 2/1 - 11/9/2020, cổ phiếu TVC của Công ty Cổ phần tập đoàn quản lý tài sản Trí Việt trong khoảng thời gian từ 4/5 - 19/10/2020.
Kết quả điều tra cho thấy, ông Phạm Thanh Tùng - Chủ tịch HĐQT, đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Quản lý tài sản Trí Việt (mã cổ phiếu TVC) và Công ty Cổ phần Chứng khoán Trí Việt (mã cổ phiếu TVB) là người chỉ đạo và quyết định mọi hoạt động đầu tư, giám sát hoạt động của phòng đầu tư, trực tiếp phụ trách quản lý hoạt động đầu tư chứng khoán.
Trong giai đoạn năm 2020, để tạo tính thanh khoản của các mã cổ phiếu TVB và TVC, theo sự chỉ đạo của của ông Tùng, bị cáo Hạnh và Thìn đã thực hiện hành vi thao túng thị trường chứng khoán thông qua việc sử dụng 109 tài khoản chứng khoán để giao dịch mua, bán chéo trong nội nhóm đối với mã cổ phiếu TVB, TVC nhằm tạo cung, cầu giả gây thiệt hại/thua lỗ cho 31 nhà đầu tư số tiền hơn 3,3 tỷ đồng.
Theo cáo buộc, Thìn và Hạnh đã thao túng thị trường chứng khoán bằng phương thức: Hướng dẫn các nhân viên của công ty TVB, TVC mở nhiều tài khoản chứng khoán tại các công ty chứng khoán khác nhau, đứng tên các cá nhân là nhân viên, người thân nhân viên, bạn bè, người quen của ông Tùng, các công ty vệ tinh trong hệ sinh thái của Tập đoàn Trí Việt (gọi là tài khoản chứng khoán nội nhóm).
Sau đó, các bị cáo chuyển lại thông tin các tài khoản cùng mật khẩu cho phòng đầu tư quản lý. Ông Tùng chỉ đạo Thìn sử dụng các tài khoản nội nhóm liên tục đặt lệnh, khớp đối ứng đối với cổ phiếu TVB, TVC.
Ngoài ra, bị cáo Thìn và Hạnh còn phải đặt lệnh mua bán thỏa thuận cổ phiếu TVB, TVC cho nhóm nội bộ Trí Việt trong năm 2020.
Hằng ngày, khi phát sinh giao dịch khớp lệnh, Thìn thông báo danh sách, số lượng tiền cần nộp/chuyển vào từng tài khoản chứng khoán nội nhóm theo chỉ đạo của ông Tùng và nhờ các chủ tài khoản thực hiện nộp/rút/chuyển tiền vào các tài khoản chứng khoán trong nhóm ở các ngân hàng khác nhau hoặc lấy các séc đã được các chủ tài khoản nội nhóm ký sẵn để thực hiện giao dịch tiền.
Ông Tùng còn chỉ đạo sử dụng các nguồn tiền: nguồn từ Công ty Quản lý tài sản Trí Việt, vay ký quỹ tại các công ty chứng khoán khác ngoài TVB và nguồn tiền quay vòng, luân chuyển giữa các tài khoản chứng khoán, ngân hàng của cá nhân trong nhóm nội bộ Trí Việt sau khi bán, mua các chứng khoán TVB, TVC để thực hiện việc mua/ bán cổ phiếu TVB, TVC giữa các tài khoản nội nhóm.
Tại TPHCM, theo chỉ đạo từ ông Tùng, Thìn trực tiếp đi nộp/rút/chuyển tiền từ tài khoản ngân hàng của bị cáo, hoặc chỉ đạo nhân viên đi rút tiền từ tài khoản ngân hàng rồi nộp tiền vào các tài khoản chứng khoán nội nhóm khác.
Tại Hà Nội, Hạnh chỉ đạo các nhân viên phòng nguồn vốn, nhân viên phòng đầu tư Công ty Cổ phần Chứng khoán Trí Việt tới ngân hàng rút séc từ tài khoản ngân hàng của công ty và các cá nhân nội nhóm Trí Việt rồi nộp tiền vào các tài khoản chứng khoán nội nhóm chỉ định.