LTS: Sau những tranh luận với giáo sư Sử học ông Phạm Hồng Tung liên quan tới việc đưa cuộc chiến đấu bảo vệ Biên giới phía Bắc vào môn Lịch Sử, tôn trọng tính đa chiều của truyền thông, Tuần Việt Nam xin đăng tải ý kiến của độc giả Nguyễn Duy Xuân. Mời quý vị theo dõi và tranh luận thêm.

40 năm ấy, có những lúc chúng ta “im lặng” vì “đại cục”, vì thật tình muốn giữ mối bang giao giữa hai quốc gia láng giềng “núi liền núi sông liền sông”, từng có quan hệ gắn bó “môi hở răng lạnh”.

40 năm cũng là thời điểm cần thiết để cùng nhìn lại cuộc chiến này trong lịch sử giữ nước của dân tộc, giúp các thế hệ con cháu hiểu đúng bản chất một cuộc chiến.

Báo chí trong nước những ngày qua đăng tải hàng loạt thông tin về cuộc Chiến tranh 40 năm trước với tinh thần tôn trọng sự thật, sòng phẳng với lịch sử như bà Nguyễn Thị Bình - nguyên Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định trong một bài viết của mình đăng trên báo Điện tử Giáo dục. [1] 

{keywords}
40 năm cũng là thời điểm cần thiết để cùng nhìn lại cuộc chiến này trong lịch sử giữ nước của dân tộc, giúp các thế hệ con cháu hiểu đúng bản chất một cuộc chiến.

Ngày 15/2, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức Hội thảo Khoa học Quốc gia “Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc – 40 năm nhìn lại (1979-2019)".

Trong một diễn biến liên quan tới cuộc chiến đấu này, trả lời phỏng vấn của báo Vietnamnet, ông Phạm Hồng Tung - GS Sử học - hiện đang giảng dạy tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội), Chủ biên chương trình Lịch sử trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể cho rằng: “cần tuyệt đối tránh các ngôn từ, hình ảnh, lối trình bày mang tính gây hấn, biểu cảm, miệt thị. Các ngôn từ biểu cảm, miệt thị, như “chúng”, “quân địch”, “giặc”, “dã man”, “tàn bạo”, “khát máu” … không hề giúp cho các lập luận, phân tích, đánh giá gia tăng tính thuyết phục, trái lại, làm bộc lộ rõ thái độ định kiến, áp đặt, phiến diện, thiếu khách quan và do đó, thiếu tính thuyết phục”.[4]

Tôi xin tranh luận trên tinh thần xây dựng. Cuộc chiến tranh nào cũng bao hàm hai đối tượng địch – ta; quân ta – quân địch, quân giặc, chúng. Bây giờ không sử dụng những những thuật ngữ đó thì gọi kẻ thù của đất nước (trong một cuộc chiến tranh cụ thể) là gì, chắc không phải là ông, là “bạn”?

Và đã là kẻ thù (địch, giặc, chúng) từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đều có chung bản chất: “dã man”, “tàn bạo”, “khát máu”.

Cuộc chiến nào cũng gắn với một thời điểm lịch sử cụ thể. Những ngôn từ mà ông Tung “lo ngại” cũng mang tính lịch sử cụ thể, nó chỉ để gọi những kẻ chủ mưu và tham gia chiến tranh xâm lược, trong trường hợp này là nhà cầm quyền Trung Quốc và quân đội của họ lúc bấy giờ. Không ai lại hiểu, những “giặc, quân giặc, chúng, địch, tàn bạo, dã man, khát máu,…” là chính quyền và nhân dân Trung Quốc hiện nay.

Đọc lại Bình Ngô đại cáo. Gần 600 năm trước, người Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi từng viết: “- Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng (Toại linh Tuyên Đức chi giảo đồng, độc binh vô yếm)

- Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán (Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha)”.

Chả nhẽ viết như thế, Nguyễn Trãi cũng “bộc lộ rõ thái độ định kiến, áp đặt, phiến diện, thiếu khách quan và do đó, thiếu tính thuyết phục”?

Cũng trong bài trả lời phỏng vấn nói trên, ông Tung đề xuất: “Bây giờ chính là lúc giới sử học của hai nước nên ngồi lại, thảo luận những nguyên tắc cơ bản để dạy về những vấn đề liên quan đến lịch sử hai nước”.

Ông Tung nhận xét: “lịch sử về những cuộc chiến trong quá khứ như cuộc chiến tranh của nhà Hán đàn áp khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cuộc chiến tranh của nhà Tống với nhà Lý, cuộc chiến tranh ba lần Mông Nguyên xâm lược Đại Việt,… đang được giảng dạy ở trong các trường phổ thông hai nước rất khác nhau”. 

Theo đó, “Chỉ có thể bằng con đường hòa giải lịch sử thì chúng ta mới góp phần “giải độc lịch sử”.

Lịch sử là tấm gương soi chiếu quá khứ do đó viết sử hay dạy sử đều phải tôn trọng sự thật, chính xác, khách quan.

Dư luận rất tán thành quan điểm của bà Nguyễn Thị Bình, Lịch sử phải được nhìn nhận với sự thật đầy đủ.

“Tôi muốn nhấn mạnh rằng: Ta tôn trọng lịch sử, sòng phẳng với lịch sử không có nghĩa là chúng ta kích động hận thù.

Con em chúng ta cần biết và có quyền biết lịch sử, biết những gì mà ông cha đã làm, để tự hào và tiếp nối truyền thống”.[5]

Nghiên cứu sinh môn Lịch sử Vũ Minh Hoàng, Đại học Cornell (Hoa Kỳ) cũng cho rằng, “khẩn trương giải mật các tài liệu liên quan đến cuộc chiến tranh này, để các học giả, quan chức, và dân chúng có thể tự do thảo luận về lịch sử một cách thẳng thắn, có cơ sở.”.[6]

Trong lúc đó, suốt 40 năm qua, phía Trung Quốc vẫn tuyên truyền, giảng dạy cho các thế hệ học sinh và người dân của họ rằng chiến tranh Biên giới Việt - Trung tháng 2/1979 là “cuộc chiến tranh phản kích chống Việt Nam để tự vệ” (phản Việt phòng vệ chiến tranh) nhằm trừng phạt “tiểu bá” Việt Nam vong ân bội nghĩa, tay sai của Liên Xô(!?)

Còn chúng ta thì sao? Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 bản in năm 2001 có 3 đoạn, 24 dòng viết về chiến tranh biên giới phía Bắc nhưng đến bản in năm 2018 chỉ còn 2 đoạn, 4 câu, 11 dòng.

Chừng ấy thôi cũng đủ để thấy, chúng ta đã ứng xử như thế nào trước sự thật lịch sử còn rất mới mẻ này.

Xin hãy để thể hiện lịch sử đất nước đúng với bản chất khoa học của nó. Tài liệu lịch sử không phải là tác phẩm tuyên truyền, không có chuyện thỏa hiệp trong việc viết, dạy lịch sử dân tộc.

Xin hãy nhớ câu nói đã thành ngạn ngữ của nhà thơ Gamzatov, “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn anh bằng đại bác”!

Nguyễn Duy Xuân

----

Nguồn tham khảo:

[1,5]. http://giaoduc.net.vn/ Xa-hoi/Song-phang-voi-lich-su- khong-phai-la-kich-dong-han- thu-post195264.gd

[2]. http://giaoduc.net.vn/Xa- hoi/Cuoc-chien-dau-bao-ve- bien-gioi-phia-Bac-cua-To- quoc--40-nam-nhin-lai- post195686.gd

[3]. https://vi.wikipedia.org/ wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh

[4]. https://vietnamnet.vn/vn/ giao-duc/khoa-hoc/chien-tranh- bien-gioi-nam-1979-se-co-mat- trong-chuong-trinh-pho-thong- moi-ra-sao-507597.html

[6]. https://vietnamnet.vn/vn/ tuanvietnam/tieudiem/bien- gioi-thang-2-1979-trung-quoc- am-muu-dung-thu-doan-507103. html