Khuyến khích cán bộ y tế làm việc tại vùng khó khăn
Theo báo cáo của Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em (Bộ Y tế), hơn 25 năm trước, tỷ lệ tử vong mẹ ở Việt Nam vào khoảng 233/100.000 trẻ đẻ sống, cao gấp 4 lần thời điểm hiện tại. Tử vong mẹ tại các vùng sâu, vùng xa thậm chí còn cao hơn rất nhiều. Giai đoạn 2000 – 2001, tử vong mẹ đã giảm xuống ở mức 165/100.000 trẻ đẻ sống, tuy nhiên vẫn còn có sự khác biệt đáng kể về tình trạng sức khỏe và tử vong giữa các vùng địa lý, kinh tế - xã hội và giữa các nhóm dân tộc. Đặc biệt, tỷ lệ đẻ tại nhà không có cán bộ y tế đỡ đẻ trong giai đoạn này còn rất cao ở khu vực miền núi, dao động trong khoảng 50-58%.
Việc không khám thai, đẻ tại nhà không được hỗ trợ của cán bộ y tế là nguyên nhân quan trọng khiến tình trạng tử vong mẹ còn cao ở các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ về giảm tử vong mẹ, tử vong trẻ em và thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền về sức khỏe bà mẹ và trẻ em. Ngoài ra, nghèo đói, giao thông khó khăn, thiếu thông tin liên lạc, tiếp cận dịch vụ y tế còn hạn chế ở những vùng xa xôi, hẻo lánh… là những yếu tố cản trở đồng bào dân tộc sinh con tại cơ sở y tế. Đặc biệt, sự khác biệt về yếu tố văn hóa như ngôn ngữ, phong tục tập quán có liên quan đến việc mang thai, sinh con… cũng làm giảm khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế của người dân ở vùng núi cao.
Bên cạnh đó, nhân lực y tế, trong đó đặc biệt là nhân lực làm công tác chăm sóc thai sản và sơ sinh ở vùng miền núi luôn thiếu trầm trọng. Cán bộ y tế xã rất khó để thực hiện những dịch vụ làm mẹ an toàn, chăm sóc trẻ sơ sinh tại các thôn bản vùng núi cao và xa xôi hẻo lánh do điều kiện đi lại khó khăn, thiếu kinh phí, trang thiết bị. Trên thực tế, cán bộ y tế là người dân tộc Kinh khó có khả năng hòa nhập, tiếp cận với đồng bào dân tộc thiểu số, đặc biệt là những dân tộc có nhiều nét văn hóa đặc thù như H’mông, Giẻ Triêng, Raglai…. Đồng thời, các chế độ, chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ y tế làm việc tại vùng khó khăn còn nhiều bất cập…
Trước thực trạng này, Bộ Y tế đã tiến hành đào tạo những cô đỡ thôn bản đầu tiên. Họ là người dân tộc thiểu số, được lựa chọn từ chính cộng đồng dân tộc tại địa phương. Họ được đào tạo về y tế để thực hiện hiệu quả việc tuyên truyền, tư vấn, phát hiện và chuyển tuyến kịp thời cho các bà mẹ mang thai có nguy cơ tai biến sản khoa; can thiệp làm mẹ an toàn, đỡ đẻ bằng "gói đẻ sạch" cho sản phụ ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn còn tồn tại tục lệ đẻ tại nhà, nhằm hạn chế các trường hợp tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh.
Số cô đỡ thôn bản hiện tại mới chỉ đáp ứng được chưa đến 1/3 nhu cầu
Ông Đinh Anh Tuấn, Vụ trưởng Vụ Sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em, Bộ Y tế cho biết, hiện nay cả nước có gần 2.700 cô đỡ thôn bản ở 27 tỉnh.
Thông tin hoạt động mạng lưới cô đỡ thôn bản cho thấy hiện nay có 3726 xã thì số xã có đẻ tại nhà là 1386 (chiếm 37,2%). Cả nước có 12.939 thôn bản vùng địa bàn khó khăn thì Thừa Thiên Huế là tỉnh ít nhất với 27 thôn bản, Sơn La nhiều nhất với 1708 thôn bản. Số thôn bản cần có cô đỡ thôn bản là 7.221 nhưng hiện mới chỉ có 2.632 xã có cô đỡ thôn bản. Vẫn còn 4.639 xã chưa có đội ngũ này.
Trên cả nước, tổng số cô đỡ thôn bản được đào tạo trên 6 tháng là 2.632 nhưng chỉ có 1.702 cô đỡ thôn ban được đào tạo đang hoạt động (chiếm 64,7%) trong đó ít nhất là Phú Yên (3 người) và nhiều nhất là Điện Biên (203 người).
Số cô đỡ thôn bản đang được hưởng phụ cấp của nhân viên y tế thôn bản là 1.142 người (chiếm 67%) trong đó tỉnh ít nhất là Phú Yên, nhiều nhất là Nghệ An và Điện Biên.
Trải qua 30 năm hình thành và phát triển, đội ngũ này đã có rất nhiều đóng góp quan trọng trong chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ mang thai, trẻ sơ sinh vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, góp phần thực hiện thành công mục tiêu thiên niên kỷ.
Diệu Bình, Quốc Tiến, Đỗ Khôi, Kiều Oanh