- 11 giờ 24 phút ngày 30/4/1975, chúng tôi có mặt trước Dinh Độc lập. Trong những giây phút đó, tôi đã ghi lại được những tấm hình lịch sử.
Trở lại mặt trận cũ
Mùa xuân năm 1975, tôi đang là phóng viên quân sự thuộc Cục Tuyên huấn Tổng cục Chính trị, với tin tức, bài ảnh đăng trên Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN). Ra Tết, tôi nhận được lệnh chuẩn bị đi mặt trận Quảng Trị - Thừa Thiên Huế. Với tôi, đây là mặt trận quen thuộc, năm 1972, chúng tôi lăn lộn nơi đây hàng mấy tháng trời giữa lúc chiến tranh ác liệt nhất.
Nhắc đến Quảng Trị tôi không thể nào quên kỷ niệm ở Thành cổ. Ngày 19/6, những trận đánh dữ dội nhất với mưu toan tái chiếm Thành cổ của lính chế độ cũ đã diễn ra. Súng phun lửa bắn trực tiếp vào từng ngách hào, từng hố cá nhân, nơi các chiến sĩ ta bám trụ, chiến đấu ngoan cường, quả cảm.
Năm ấy, mặt trận Quảng Trị chứng kiến sự hy sinh to lớn của bao cán bộ, chiến sĩ: Vũ Trung Thướng, Nguyễn Như Hoạt, Mai Ngọc Thoáng... Như một nhà thơ đã viết: "Nếu các anh trở về đông đủ/Sư đoàn ta đã thành mấy sư đoàn".
Trên chiến hào, chúng tôi gặp những cán bộ chỉ huy cấp tiểu đoàn, trung đoàn còn trẻ măng, có người chưa đến tuổi 30, lớp chiến sĩ từ học sinh vừa tốt nghiệp lớp 7, lớp 10, trong số họ không ít người là sinh viên đại học. Họ hoạt bát và vui nhộn, ít nghĩ đến gia đình, cái "tôi", đến cuộc sống riêng của mình. Họ sung sức và thông minh trong đánh giặc. Có người mới được luyện tập vài ba chục ngày đã ra trận.
Các chiến sĩ Đoàn Phú Xuân giải phóng Huế ngày 26/3/1975. Ảnh: Nhà báo Ngọc Đản chụp trước cửa Ngọ Môn - Huế |
Nhớ lại kỷ niệm mặt trận Quảng Trị, chúng tôi háo hức lên đường. Chúng tôi được Bộ Biên tập TTXVN trao đổi và đưa tiễn. Đã từ lâu ở bộ phận quân sự làm việc, thông tấn xã vẫn coi anh em phóng viên như người nhà.
Những ngày đầu tháng 3, tin tức chiến thắng từ chiến trường Tây Nguyên và trận đánh giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột làm nức lòng hậu phương. Giữa tháng 3 chúng tôi rời Hà Nội lên đường. Tôi và Hoàng Thiểm được phân công cùng đi một mũi vào Quảng Trị.
Chúng tôi vốn cùng một tổ học tập trong trường, hiểu nhau như anh em. Vào quân đội tôi được phong quân hàm thiếu úy, Hoàng Thiểm chuẩn úy. Anh Thiểm lớn tuổi hơn, trong công việc chúng tôi đều thảo luận với nhau tỉ mỉ từng vấn đề nhỏ như đi đâu, theo đơn vị nào, phối hợp với các anh bên TTXVN gửi tài liệu về Hà Nội ra sao để bảo đảm nhanh nhất, an toàn nhất...
Kinh nghiệm muôn thuở, đặc trưng nghề nghiệp là thông tin nhanh nhạy, kịp thời, chính xác. Viết rồi mà không đưa nhanh về tòa soạn để các Ban biên tập khai thác, xử lý là coi như công toi. Cạnh tranh báo chí bây giờ cũng vậy thôi, làm sao để đưa thông tin đến bạn đọc sớm nhất.
Rạng sáng ngày 26/3/1975, chúng tôi cùng một tốp phóng viên TTXVN tiến vào Huế. Tôi nhớ như in suốt đêm 25 vượt sông Mỹ Chánh chạy bộ vào Huế, sau những ngày hành quân gian khổ chúng tôi thở không ra hơi.
Những giờ phút đầu tiên Huế giải phóng, chúng tôi đã ghi được trên đường phố trong tiếng đạn, pháo nổ những tấm ảnh lịch sử. Mỗi khi nhìn bức ảnh các cô du kích và bộ đội giương cao lá cờ giải phóng trên chiếc xe tiến vào Ngọ Môn, lòng tôi vẫn tự hào.
Những giờ phút lịch sử
Sáng 29/3, chúng tôi đã có mặt ở Đà Nẵng. Tôi, anh Lâm Hồng Long, Trần Mai Hưởng và Hoàng Thiểm vượt đèo Hải Vân bằng xe Honda. Dọc đường thỉnh thoảng những loạt súng của tàn quân lính chế độ cũ lại réo qua sườn núi. Buổi sáng 29/3 trời Đà Nẵng lất phất mưa, khi chúng tôi có mặt thì bộ binh và xe tăng Quân đoàn 2 cùng lực lượng vũ trang Quân khu 5 đã có mặt ở thành phố, chiếm giữ sân bay Đà Nẵng.
Gần một tháng sau đó, tôi và Hoàng Thiểm lại được lệnh chủ động tìm kiếm, liên hệ với Quân đoàn 2 tiến về Sài Gòn. Phóng viên mặt trận chúng tôi luôn luôn được cán bộ, chiến sĩ ưu ái, giúp đỡ. Chiều 28/4 chúng tôi tìm được Sở chỉ huy cánh quân hướng Đông - Bắc. Trung tướng Phạm Hồng Cư, lúc đó là Cục trưởng Văn hóa, đặc trách công tác chính trị, hướng dẫn chúng tôi tìm cách liên hệ với Quân đoàn 2.
Chiều 29/4, Thượng tướng Lê Khả Phiêu, lúc đó là Chủ nhiệm chính trị Quân đoàn 2, cho chiến sĩ liên lạc đưa chúng tôi đến mũi tiến công của Sư đoàn 304 đang phối hợp với Lữ đoàn xe tăng 203.
Rạng sáng ngày 30/5, sau khi đã vượt căn cứ Nước Trong, chúng tôi theo xe tăng của Tiểu đoàn 1, Lữ đoàn 203 bắt đầu theo đường 15, vượt cầu Xa lộ sông Đồng Nai nhằm thẳng hướng nội thành mà tiến.
Xe tăng Lữ đoàn 203 tiến vào dinh Độc Lập ngày 30/4/1975. Ảnh: Nhà báo Ngọc Đản chụp lúc 11h30 ngày 30/4/1975 |
11 giờ 24 phút ngày 30/4/1975, chúng tôi có mặt trước Dinh Độc lập.
Trong những giây phút đó, tôi đã ghi lại được những tấm hình lịch sử: Nội các ông Dương Văn Minh đầu hàng đang bước xuống bậc tam cấp theo sự quản lý của cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 304, Lữ đoàn 203; Hình ảnh Trung đoàn phó Trung đoàn 66, Lữ đoàn 204 Phạm Xuân Thệ uy nghi, cao lớn, nghiêm khắc mà rất khoan dung; Chân dung Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, từ xe tăng 843 nhảy lên tầng thượng của Dinh Độc lập treo lá cờ Tổ quốc, nụ cười chiến thắng reo vui trên khuôn mặt còn lấm đen khói đạn. Tôi đã ghi lại cả những nhân chứng sự kiện xe tăng 390 với sự có mặt của nữ nhà báo Pháp Phrăng-xoa Đơ Muyn-đô trong những phút giây lịch sử đó.
Nhờ anh lái xe cảnh sát Võ Cự Long của chính quyền VNCH chúng tôi nhanh chóng đến Bộ Tổng Tham mưu VNCH, sân bay Tân Sơn Nhất. Ngay tại sân bay tôi chụp ảnh nữ biệt động Nguyễn Trung Kiên (tức cô Nhíp) dẫn đầu chiếc xe tăng đánh chiếm Tân Sơn Nhất.
Nữ chiến sĩ biệt động Sài Gòn Cao Thị Nhíp (bí danh Nguyễn Trung Kiên) dẫn đường cho xe tăng Quân đoàn 3 tiến đánh sân bay Tân Sơn Nhất |
Buổi chiều hôm, tôi quyết định dùng chiếc xe Zep 6 máy và động viên Võ Cự Long một sĩ quan chế độ cũ, trưởng một công xa dẫn đường cho các yếu nhân của chính quyền Sài Gòn lúc đó, lập công cho cách mạng đưa tôi và anh Hoàng Thiểm về Đà Nẵng. Một mình Long lái xe suốt tối 30 đến rạng sáng 2/5 (trên đường chỉ nghỉ vài giờ) đưa chúng tôi về Đà Nẵng.
Ngay buổi trưa hôm đó, anh Thiểm theo máy bay đưa tài liệu ra Hà Nội sớm nhất. Báo Nhân Dân và Quân đội nhân dân ngày 3/5 đã đăng những hình ảnh đầu tiên về giờ phút lịch sử ngày 30/4/1975.
Ngọc Đản
Bí thư cũng phải lặn lội chạy ăn từng bữa
Lãnh đạo chạy lo từng bữa cho dân, tin vào dân, huy động sức dân... đã giúp TP. Hồ Chí Minh vượt qua giai đoạn khó khăn ngặt nghèo.
TP.HCM không thể dàn hàng ngang như các tỉnh, thành khác
“Song hành cùng cả nước” có nghĩa là mình không thể tách thành phố thành ốc đảo riêng nhưng không có nghĩa thành phố phải dàn hàng ngang làm những việc giống như các tỉnh thành còn lại”.
Đầu tàu áp cơ chế như toa tàu thì dễ mắc kẹt
"Giá như thành phố thiết kế được những qui định buộc cán bộ phải chịu trách nhiệm giải trình trước nhân dân, sẽ bị mất chức trước lá phiếu của nhân dân sẽ đỡ cho chính quyền Trung ương rất nhiều”.