OCOP là từ viết tắt của “One commune one product” nghĩa là “mỗi xã (phường) một sản phẩm”, bắt nguồn từ Phong trào OVOP được triển khai ở Nhật Bản từ thập niên 70 của thế kỷ XX và được đánh giá là rất thành công, mang lại nhiều lợi ích cho người dân nên đến nay đã được trở thành mô hình mẫu của hơn 40 quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Ở nước ta, ngày 7/5/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 490/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) nhằm phát huy thế mạnh, đặc thù ở mỗi địa phương để thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn bền vững, góp phần giảm nghèo, tăng thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, đồng thời khắc phục những hạn chế của Chương trình nông thôn mới. Đây chính là một bước đột phá của nước ta trong tiếp cận phát triển kinh tế nông thôn với 3 mục tiêu rõ ràng như sau:
Góp phần phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, nâng cao thu nhập, đời sống cho nhân dân và thực hiện hiệu quả nhóm tiêu chí “kinh tế và tổ chức sản xuất” trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM. Trách nhiệm thực hiện Chương trình OCOP thuộc về các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, các hộ sản xuất có đăng ký kinh doanh và tập trung áp dụng đối với đối tượng là 6 ngành hàng dịch vụ thuộc các lĩnh vực cơ bản và phổ biến ở vùng nông thôn gồm: thực phẩm, đồ uống, thảo dược, vải - may mặc, thủ công mỹ nghệ, du lịch nông thôn kết hợp bán hàng.
Sản phẩm OCOP được đánh giá theo 5 hạng, trong đó sản phẩm hạng 5 sao là cao nhất, bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Bên cạnh đó, chương trình cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập, đời sống cho nhân dân và thực hiện hiệu quả nhóm tiêu chí “Kinh tế và tổ chức sản xuất” trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới. Ngoài ra, thông qua việc phát triển sản xuất tại khu vực nông thôn, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn hợp lý (hạn chế dân di cư ra thành phố), bảo vệ môi trường và bảo tồn những giá trị truyền thống tốt đẹp của nông thôn Việt Nam.
Và, góp phần bảo vệ môi trường, bảo tồn những giá trị truyền thống tốt đẹp của nông thôn Việt Nam. Chương trình được thực hiện với hai nguyên tắc sản phẩm hướng tới tiêu chuẩn chất lượng quốc tế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đến nay 63/63 tỉnh, thành phố đã tổ chức đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP. Trên cả nước đã có 8.565 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên, trong đó, 65,4% sản phẩm 3 sao, 33,4% sản phẩm 4 sao, 0,7% sản phẩm tiềm năng 5 sao và 0,2% sản phẩm 5 sao. Đồng thời, đã có hơn 4.392 chủ thể OCOP, trong đó có 38,3% là hợp tác xã, 25,8% là doanh nghiệp, 33% là cơ sở sản xuất, kinh doanh, còn lại là tổ hợp tác có sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên.
Đến tháng 7/2023, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công nhận 42 sản phẩm OCOP 5 sao quốc gia của 24 chủ thể/doanh nghiệp.
Chương trình OCOP đã có những tác động tích cực, đậm nét đến phát triển kinh tế nông thôn. Thông qua thực hiện chương trình, đã góp phần chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ sang sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị, theo tiêu chuẩn, quy chuẩn, có truy xuất nguồn gốc và theo nhu cầu thị trường. Khơi dậy tiềm năng đất đai, sản vật, lợi thế so sánh, đặc biệt là các giá trị văn hóa vùng miền để hình thành các sản phẩm OCOP tích hợp “đa giá trị”, gắn kết giữa phát triển nông nghiệp với dịch vụ, du lịch.
Chương trình OCOP giai đoạn 2021-2025 đã đặt ra các mục tiêu cụ thể. Theo đó, đến năm 2025, phấn đấu có ít nhất 10.000 sản phẩm OCOP được công nhận đạt từ 3 sao trở lên, trong đó ít nhất có khoảng 400-500 sản phẩm OCOP đạt 5 sao.
Củng cố và nâng cấp ít nhất 50% sản phẩm OCOP đã được đánh giá và phân hạng. Ưu tiên phát triển sản phẩm OCOP gắn với thương hiệu sản phẩm, phát triển dịch vụ du lịch nông thôn. Ưu tiên phát triển các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, phấn đấu ít nhất có 40% chủ thể OCOP là hợp tác xã và 30% chủ thể là các doanh nghiệp.
Có ít nhất 30% các chủ thể OCOP xây dựng được chuỗi giá trị theo hướng kinh tế tuần hoàn, OCOP xanh gắn với vùng nguyên liệu ổn định, trong đó, ưu tiên các sản phẩm OCOP đã được đánh giá và phân hạng.
Thành công của Chương trình xây dựng nông thôn mới nói chung và chương trình OCOP nói riêng có thể được xem như một thành tựu nổi bật thứ hai trong việc phát huy vai trò điểm tựa của nền kinh tế cũng như đóng góp vào ổn định tăng trưởng, ổn định xã hội của khu vực nông nghiệp. Thành tựu nổi bật thứ nhất chính là khoán 10 trong thập niên 90 của thế kỷ trước đóng vai trò giải phóng lực lượng sản xuất, năng lực sản xuất từ địa hạt nông nghiệp để từ đó làm đòn bẩy xoay chuyển thế thoát ra khỏi khủng hoảng, thoát nghèo đói.
Chương trình cũng cho thấy nông nghiệp Việt Nam không chỉ đủ khả năng giải quyết những vấn đề “cập thời” của mỗi giai đoạn, từ việc lo “nồi cơm” của từng gia đình đến “nồi cơm” của cả nền kinh tế với những chất lượng mới, tiêu chí mới bằng việc tạo dựng những sản phẩm đáp ứng được đòi hỏi của xã hội hôm nay, thị trường hôm nay bao gồm cả thị trường khu vực, liên khu vực trong nước và rộng hơn là thị trường quốc tế.
Câu chuyện qua 5 năm thực hiện Chương trình OCOP cho thấy sức mạnh của nội lực của thể chế từ cấp Trung ương, các bộ hữu quan trong đó có vai trò trực tiếp của Bộ Công Thương đến những chính sách cụ thể ở từng địa địa phương. Ít có một chương trình nào tạo được sự đồng thuận cao, sự tham gia đầy đủ với tinh thần trách nhiệm từ chính quyền đến từng hộ gia đình, người nông dân. Mỗi một sản phẩm OCOP dù còn và sẽ được gắn hạng “sao” nào đó nhưng đều chứa đựng trong đó ý thức về phát triển, không cam chịu đói nghèo, tụt hậu mà sẵn sàng tạo dựng một không gian phát triển ngay trên mảnh đất của mình, ngay từ nơi đã từng in dấu ấn khai mở của các bậc tiền nhân
OCOP không chỉ là câu chuyện về sản phẩm, về thương hiệu, về kinh tế mà còn là câu chuyện về hội nhập. Hội nhập đã trở thành yếu tố tự thân, cũng là nhu cầu với việc xây dựng các sản phẩm OCOP với các giá trị căn bản như sở hữu trí tuệ, truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý cùng việc đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định, những tín hiệu căn bản của thị trường
OCOP cũng còn là câu chuyện về văn hoá. Mỗi một sản phẩm OCOP đã và đang tự khẳng định bản sắc đa dạng, đa sắc màu về thương hiệu, về giá trị để khi nó ra khỏi nơi sản xuất, nuôi trồng đã góp vai trò như một sứ giả, như một câu chuyện về nơi làm ra nó, người làm ra nó. Giá trị văn hoá của mỗi sản phẩm OCOP ngày càng lớn hơn giá trị vật chất mà mỗi sản phẩm OCOP mang trên mình.
Dù chặng đường sắp tới còn rất dài, song 5 năm qua, Chương trình OCOP có thể được xem là nền tảng vững chắc xây dựng nông thôn mới. Mỗi sản phẩm OCOP quốc gia ngày càng đóng vai trò như một “đại sứ” của từng vùng, miền đất nước, tự tin giới thiệu những câu chuyện sinh động về mỗi vùng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.