Bộ GD-ĐT vừa ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ. Theo đó, quy chế có nhiều điều chỉnh nhằm đảm bảo phù hợp với thực tế; tăng cường liêm chính học thuật, học thật, nghiên cứu thật và nâng cao sự tự chủ, trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục đại học.
Bổ sung yêu cầu về ngoại ngữ, thay đổi mốc thời gian đào tạo
Để lượng hóa, chuẩn hóa những quy định đối với người dự tuyển, quy chế này đã bổ sung minh chứng về trình độ ngoại ngữ. Theo đó, bên cạnh những chứng chỉ được quốc tế công nhận như IELTS, TOEFL,… người dự tuyển có thể sử dụng các chứng chỉ quốc gia tương đương trình độ bậc 4 (theo khung năng ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam) do Bộ GD-ĐT công bố.
Ngoài ra, các mốc thời gian đào tạo tiến sĩ cũng được thay đổi so với trước để đáp ứng yêu cầu đào tạo thực tiễn. Cụ thể, tổng thời gian đào tạo tiêu chuẩn là từ 3-4 năm. Tổng thời gian học tập nghiên cứu trước khi trình hồ sơ thực hiện quy trình phản biện độc lập và bảo vệ cấp cơ sở là 6 năm. Thời hạn để hoàn thành các thủ tục bảo vệ luận án ở cơ sở sau thời gian này là từ 6 tháng đến 1 năm tùy theo tình hình thực tế do cơ sở đào tạo quyết định.
Chấp nhận bài báo khoa học trên tạp chí trong nước
Theo quy chế, các bài báo, báo cáo khoa học trong danh mục tạp chí World of Sciences và Scopus vẫn là yêu cầu để minh chứng cho kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu khoa học của người hướng dẫn và đầu ra của nghiên cứu sinh.
Tuy nhiên, quy chế đã bổ sung việc chấp nhận các bài báo đăng trên tạp chí trong nước có chất lượng tốt được Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định khung điểm đánh giá tới 0,75 điểm trở lên theo ngành đào tạo, hoặc sách chuyên khảo do các nhà xuất bản có uy tín trong nước và quốc tế phát hành. Các ghi nhận chỉ áp dụng nếu là tác giả chính.
Việc bổ sung công nhận bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành có uy tín trong nước ở thời điểm hiện tại, theo Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học Nguyễn Thu Thủy là cẩn thiết, bởi chất lượng của một số tạp chí khoa học chuyên ngành có uy tín ở trong nước trong gần 5 năm vừa qua đã thay đổi rất tích cực.
Hiện Việt Nam đang có 1 tạp chí được chỉ mục trong cơ sở dữ liệu SCIE; 6 tạp chí thuộc ESCI của Web of Sciences; 8 tạp chí Scopus và 18 tạp chí được chỉ mục trong cơ sở dữ liệu của ACI.
Do đó, sự ghi nhận, công nhận đối với các tạp chí trong nước sẽ là động lực để các tạp chí khoa học phấn đấu nâng cao chất lượng, tiệm cận với các tiêu chuẩn quốc tế bằng nội lực, từ đó, đẩy mạnh việc quan tâm xây dựng các tạp chí trong nước vươn lên đẳng cấp quốc tế.
Ngoài ra, bên cạnh việc góp phần đưa kết quả nghiên cứu của người hướng dẫn và nghiên cứu sinh đến với cộng đồng khoa học quốc tế, việc công bố các kết quả nghiên cứu qua các tạp chí có uy tín ở trong nước là một kênh để những sản phẩm khoa học có giá trị phù hợp với điều kiện của Việt Nam đến được với đông đảo những người quan tâm ở trong nước.
“Đây là sự ghi nhận các kết quả nghiên cứu ứng dụng để giải quyết các vấn đề thực tiễn, góp phần tư vấn và xây dựng chính sách tại Việt Nam. Quy định này cũng khẳng định trách nhiệm, đóng góp đối với quốc gia của các nhà khoa học, nghiên cứu sinh Việt Nam”, bà Thủy nói.
Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ tiến sĩ có nhiều điều chỉnh nhằm đảm bảo phù hợp với thực tế; tăng cường liêm chính học thuật (Ảnh minh họa: Thanh Hùng)
Bên cạnh đó, quy chế này cũng cho phép thay thế các công bố nghiên cứu khoa học bằng những kết quả nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ đã đăng ký và được cấp bằng độc quyền sáng chế quốc gia hoặc quốc tế; hoặc giải thưởng chính thức của cuộc thi quốc gia hoặc quốc tế trong lĩnh vực nghệ thuật và nhóm ngành thể dục, thể thao, được công nhận bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
Cách tính điểm sẽ căn cứ theo khung điểm tối đa của Hội đồng Giáo sư nhà nước quy định, với tổng điểm đối với người hướng dẫn là 4,0 và đối với đầu ra của nghiên cứu sinh là 2,0.
Mở rộng tự chủ, tăng trách nhiệm giải trình
Để mở rộng tự chủ và trách nhiệm giải trình củac các cơ sở đào tạo tiến sĩ, quy chế này cũng giảm thiểu những nội dung hướng dẫn chi tiết, thay vào đó, yêu cầu cơ sở đào tạo cụ thể hóa quy trình và thủ tục liên quan.
Cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm cao hơn về việc tổ chức triển khai thực hiện từ xây dựng chương trình đào tạo, tổ chức tuyển sinh và công nhận nghiên cứu sinh, tổ chức đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp.
Ngoài ra, theo quy chế này, người học được tạo điều kiện bảo lưu kết quả học tập trong thời gian nhất định để tiếp tục theo học và nghiên cứu nếu có nhu cầu.
Quy chế điều chỉnh tăng số lượng nghiên cứu sinh/người hướng dẫn trong cùng một thời gian. Quy định này nhằm thu hút, tận dụng tri thức của những người đủ điều kiện để đóng góp vào công tác nghiên cứu, đào tạo thế hệ tương lai, nhưng không làm giảm chất lượng đào tạo.
Cụ thể, giáo sư được hướng dẫn độc lập tối đa 7 nghiên cứu sinh; phó giáo sư hoặc tiến sĩ khoa học được hướng dẫn độc lập tối đa 5 nghiên cứu sinh; tiến sĩ được hướng dẫn độc lập tối đa 3 nghiên cứu sinh. Trường hợp đồng hướng dẫn 1 nghiên cứu sinh được tính quy đổi tương đương hướng dẫn độc lập 0,5 nghiên cứu sinh.
Thúy Nga
Giảng viên đào tạo trình độ tiến sĩ phải có năng lực nghiên cứu tốt
Thông tư của Bộ GD-ĐT quy định, giảng viên đào tạo trình độ tiến sĩ cần có chức danh giáo sư, phó giáo sư hoặc có trình độ tiến sĩ với năng lực nghiên cứu tốt; có đủ người hướng dẫn đảm bảo tối đa 7 nghiên cứu sinh/giáo sư.
Bộ GD-ĐT công bố chuẩn chương trình cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ
Theo quy định về chuẩn chương trình đào tạo đối với các trình độ giáo dục đại học do Bộ GD-ĐT ban hành, khối lượng học tập tối thiểu với cử nhân là 120 tín chỉ, thạc sĩ là 60 tín chỉ nếu trình độ đại học cùng nhóm ngành.