Cách đây 70 năm, từ ngày 10-12-1951 đến 25-2-1952, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, trực tiếp là Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, quân và dân ta đã giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Hòa Bình, giải phóng một vùng rộng lớn khu vực Hòa Bình-sông Đà, đánh bại âm mưu đánh chiếm vùng tự do của ta, phá tan ý đồ giành lại quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Bắc Bộ của quân Pháp; giữ vững đường giao thông liên lạc giữa Việt Bắc với Liên khu 3 và Liên khu 4, đồng thời “ta đã giành nhiều thắng lợi cực kỳ quan trọng về tiêu diệt địch, giải phóng đất, giải phóng dân, đặc biệt là tạo nên thế trận mới chưa từng có của ta ở vùng địch tạm chiếm ở trung du và Đồng bằng Bắc Bộ”(1). Chiến thắng Hòa Bình không chỉ là “thắng lợi quân sự, mà còn là thắng lợi chính trị có tiếng vang trên thế giới”(2).
70 năm đã trôi qua, nhìn lại chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong Chiến dịch Hòa Bình, chúng ta rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng.
Trong Chiến dịch Hòa Bình, ta không có thời gian chủ động chuẩn bị trước, mọi công tác đều phải chạy đua với thời gian nhằm tranh thủ đánh địch càng sớm càng tốt, khi địch mới chiếm được địa bàn. Do đó, từ khâu chuẩn bị đến thực hành tác chiến của các đơn vị tham gia chiến dịch đều phải nỗ lực, cố gắng cao nhất, không ngại gian khổ, hy sinh mới có thể giành được thắng lợi.
Trong chiến dịch này, bộ đội đã liên tục chiến đấu hơn 78 ngày đêm, thời gian dài nhất của một chiến dịch từ trước tới lúc đó; trong khi địch sử dụng khối lượng lớn binh khí và máy bay, gây nhiều khó khăn, tổn thất cho ta. “Vì thế trong suốt quá trình chiến dịch, ý chí, quyết tâm chiến đấu của bộ đội ta luôn được củng cố và nâng cao, bảo đảm chiến đấu bền bỉ, dẻo dai, liên tục”(3).
Các đơn vị tham gia chiến dịch đều quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 22 CT/TW ngày 24-11-1951 của Ban Chấp hành Trung ương-“Chỉ thị nhiệm vụ phá cuộc tấn công Hòa Bình của địch”-trong đó chỉ rõ đây là cơ hội để ta đánh địch trên mặt trận Hòa Bình, trên các mặt trận khác và sau lưng địch, “nắm lấy cơ hội tốt ấy để đánh địch và thắng địch là phá tan được âm mưu quân sự mới của địch”. Các đơn vị cũng đã được học tập, quán triệt sâu sắc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch.
Trong thư, Người khẳng định: “Trước kia ta phải lừa địch ra mà đánh. Nay địch tự ra cho ta đánh. Đó là một cơ hội rất tốt cho ta... Bộ đội chủ lực đánh. Bộ đội địa phương, dân quân du kích cũng đánh. Các lực lượng phải phối hợp với nhau chặt chẽ. Để tiêu diệt sinh lực địch, để đánh tan kế hoạch Thu Đông của chúng”(4). Bộ đội ta ở các mặt trận đều thấm nhuần chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị: “Đây là cơ hội rất tốt để mình đánh giặc. Phải thấy điều đó để tin tưởng, và quyết tâm đánh và thắng”(5).
Với những chủ trương, quyết sách đúng đắn, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là yếu tố quyết định thắng lợi của chiến dịch. Đồng thời, sự tin tưởng, ý chí, quyết tâm vượt mọi khó khăn, gian khổ và hy sinh tiêu diệt địch, thực hiện theo tinh thần chỉ đạo của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mỗi cán bộ, chiến sĩ tham gia chiến dịch đã tạo nên sức mạnh to lớn đưa chiến dịch đến thắng lợi.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta cần vận dụng bài học này vào quá trình xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Trước hết, tiếp tục thực hiện nghiêm túc, triệt để cơ chế Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân và sự nghiệp quốc phòng. Đồng thời, đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước thống nhất quản lý, điều hành đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân; kịp thời chuyển hóa thế trận quốc phòng toàn dân thành thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Những chủ trương, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải được quán triệt sâu sắc đến mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực, cả hệ thống chính trị và toàn dân, mà trước hết là mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Cấp ủy, người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp cần đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời và hiệu quả; phát huy vai trò của cơ quan tham mưu, phụ trách công tác quân sự, quốc phòng ở cơ quan, đơn vị, địa phương, nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng.
Lực lượng dân công vận chuyển vũ khí, lương thực cho chiến dịch Hòa Bình năm 1951-1952. Ảnh: Baotanglichsu.vn. |
Hai là, chú trọng công tác nghiên cứu dự báo, sớm nắm bắt và dự kiến tình hình để chủ động trong mọi chủ trương, chiến lược về xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng.
Để đi đến quyết định mở Chiến dịch Hòa Bình và đề ra những quyết sách trong chỉ đạo, điều hành chiến dịch, Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy đã luôn chú trọng công tác nghiên cứu, dự báo âm mưu hành động của địch và kịp thời định hướng hành động của ta. Trong hè-thu 1951, tập trung nghiên cứu kế hoạch tác chiến đông xuân 1951-1952, song ta vẫn chưa tìm ra phương hướng phù hợp cho chủ lực hoạt động. Ban đầu, nhận định địch ít có khả năng đánh ra Hòa Bình, ta chủ trương mở cuộc tiến công trước khi địch tiến công ta và hướng mở chiến dịch lớn ở hữu ngạn Liên khu 3.
Trong khi ta đang ráo riết chuẩn bị chiến dịch ở Liên khu 3, ngày 14-11-1951, Bộ Tổng Tham mưu nhận được tin quân Pháp nhảy dù chiếm thị xã Hòa Bình và về cuộc hành quân Hoa Sen (Lotus) của chúng. Việc quân Pháp mang binh lực lớn ra ngoài phòng tuyến boong-ke, đánh chiếm vùng Hòa Bình-sông Đà-Đường số 6 đã tạo cho ta “một cơ hội bằng vàng” để đánh địch, như cách nói của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp. Hòa Bình là chiến trường rừng núi, ta dễ bao vây, chia cắt địch, lại tiếp giáp với khu vực tự do Việt Bắc, cơ động lực lượng và bảo đảm hậu cần thuận lợi.
Các đại đoàn chủ lực của ta đang bố trí sát gần, dễ tranh thủ được thời gian, nổ súng tiến công địch được sớm. Kéo quân ra Hòa Bình, tự quân Pháp đã phải phân tán lực lượng, công sự chưa vững chắc, địa hình không thuận lợi. Hơn nữa, việc địch tập trung lực lượng vào mặt trận Hòa Bình sẽ tạo sơ hở để ta đánh địch ở đồng bằng. Mặt khác, đánh địch ở Hòa Bình, ta sẽ ngăn chặn, không cho địch cắt đứt hành lang liên lạc và vận chuyển giữa Liên khu Việt Bắc với Liên khu 3, Liên khu 4, tránh được việc chúng gây khó khăn cho ta sau này.
Tại cuộc họp ngày 15-11-1951, sau khi nghe Bộ Tổng Tham mưu báo cáo tình hình địch đánh chiếm Hòa Bình, tinh thần sẵn sàng chiến đấu của các lực lượng ta, Tổng Quân ủy đình chỉ mở chiến dịch Liên khu 3, đề nghị Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cho mở chiến dịch tại Hòa Bình, chuyển thế bị động sang tiến công quân địch mới chiếm đóng. Hòa Bình là hướng chính, các nơi khác là mặt trận phối hợp”(6). Đề nghị đó được Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất trí và coi đây là cơ hội rất tốt để quân ta tiêu diệt địch.
Quá trình chiến dịch, công tác nghiên cứu, dự báo âm mưu, hành động của địch vẫn được Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh chú trọng. Lúc chiến dịch đang diễn ra, ta phán đoán địch sẽ phải rút khỏi Hòa Bình vì địch không thể bỏ khu vực Đồng bằng Bắc Bộ, nơi đang bị ta đánh mạnh và giải phóng từng khu vực rộng lớn. Đồng thời, cơ quan nghiên cứu của ta còn tính đến đặc điểm của tên chỉ huy chiến trường của địch. Quyết định đưa quân đánh lên Hòa Bình là của tướng De Lattre, tổng chỉ huy quân Pháp kiêm cao ủy Pháp tại Đông Dương. Giữa lúc chiến sự tại Hòa Bình và cả Đồng bằng Bắc Bộ đang diễn ra ác liệt thì De Lattre bị bệnh, phải trở về Pháp và mất tại đó. Nắm quyền thay De Lattre, tướng Raoun Salan chỉ là quyền tổng tư lệnh và không đủ bản lĩnh như De Lattre, không dám và cũng không thể cùng một lúc đối phó với cả hai mặt trận chính diện ở Hòa Bình và mặt trận ở vùng đồng bằng. Từ nghiên cứu, dự báo chính xác đó, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh và Bộ chỉ huy chiến dịch đã có các biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo chiến dịch giành thắng lợi ngày càng lớn.
Trong công cuộc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng ngày nay, tình hình thế giới, khu vực những năm tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó dự đoán. Chiến tranh quy mô lớn ít có khả năng xảy ra, nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ có thể diễn ra gay gắt.
Đặc biệt, một số nước đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội, tăng cường năng lực hải quân với những thế hệ vũ khí mới. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh tiếp tục phức tạp, xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia, dân tộc. Là lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, ổn định của đất nước, trong xây dựng Quân đội nhân dân hiện nay, cần chú trọng công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược chính xác về quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ nghiên cứu, dự báo chính xác, quân đội chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định và thực hiện đường lối, chiến lược, chủ động, tích cực bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa lâm nguy. Quân đội cần chủ động nghiên cứu, dự kiến các tình huống, biện pháp đối phó hiệu quả với mọi tình huống về quân sự, quốc phòng cả trên không, trên đất liền, trên biển, đảo và trên không gian mạng, kiên quyết không để bị động, bất ngờ, luôn bảo đảm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển toàn diện đất nước. Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung, hoàn thiện tư duy lý luận quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội.
Về vấn đề này, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng-quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự... Nâng cao năng lực dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống”(7). Đây là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong xây dựng Quân đội nhân dân, tăng cường quốc phòng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Ba là, xây dựng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân ba thứ quân vững mạnh, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, trong đó tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Trong Chiến dịch Hòa Bình, trên cơ sở LLVT ba thứ quân được xây dựng từ năm 1949, đặc biệt là các đại đoàn chủ lực đã được xây dựng vững mạnh, Tổng Quân ủy, Bộ Tổng Tư lệnh đã thành công trong chỉ đạo phối hợp tác chiến giữa bộ đội chủ lực, LLVT địa phương và lực lượng chính trị của quần chúng, giữa mặt trận chính diện và mặt trận sau lưng địch, phát huy cao độ hiệu quả của từng mặt trận, từng lực lượng cùng hoàn thành mục tiêu chiến dịch.
Về lực lượng, cho đến trước lúc bước vào Chiến dịch Hòa Bình, riêng ở Bắc Bộ, ta đã xây dựng được một lực lượng chủ lực mạnh bao gồm 5 đại đoàn bộ binh (304, 308, 312, 320, 316), Đại đoàn công pháo 351 cùng các trung đoàn, tiểu đoàn chủ lực của các địa phương.
Trong đề nghị Tổng Quân ủy “Phương hướng Chiến dịch mùa đông 1951 và kế hoạch đề phòng địch tấn công” báo cáo tại hội nghị Bộ Chính trị ngày 19-10-1951 đã điểm lại tình hình bộ đội ta: “Cả 5 đại đoàn bộ binh và 3 trung đoàn độc lập ở Bắc Bộ đã trang bị xong, đều đã chỉnh huấn một lần, sau kỳ tác chiến vừa qua phần lớn đã bổ sung, biên chế bắt đầu thực hiện... Trung đoàn sơn pháo đang chấn chỉnh, trung đoàn trọng pháo cũng đang huấn luyện... Sau một thời gian huấn luyện thì trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội được đề cao một bước... Trình độ chính trị khá hơn trước... Sức khỏe có tiến bộ... Bộ đội địa phương thì toàn Bắc Bộ có 14 tiểu đoàn tập trung và 180 đại đội tỉnh và huyện”(8).
Sau đợt hoạt động tác chiến xuân hè 1951, các đại đoàn chủ lực của ta có thời gian tập trung huấn luyện quân sự và học tập chính trị, trong đó chú trọng huấn luyện về kỹ thuật, chiến thuật, tổ chức các lớp chỉnh huấn chính trị cho cán bộ trung sơ cấp của các đại đoàn. Vừa huấn luyện, vừa tiếp nhận trang bị mới (trừ Đại đoàn 325) nên sức mạnh chiến đấu của bộ đội được tăng lên rõ rệt. Trước khi địch tiến công Hòa Bình, các đại đoàn chủ lực cũng như các địa phương đã sẵn sàng để bước vào tác chiến trong đông xuân 1951-1952. Cùng với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, lực lượng dân quân, du kích đã phát triển nhanh chóng và tăng cường hoạt động phối hợp ở khắp các chiến trường.
Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình là kết quả của việc chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân; trong đó chú trọng khối chủ lực mạnh. Đây thực sự là một yêu cầu cấp thiết và tất yếu của kháng chiến, có bộ đội chủ lực mới có thể đánh những đòn mạnh làm xoay chuyển tình thế, xoay chuyển cục diện chiến trường, giành thắng lợi. Có chủ lực mạnh mới tùy theo yêu cầu của từng chiến dịch để tổ chức thành công những trận đánh quyết định. Bên cạnh đó, để phối hợp, phát huy hiệu quả của những đòn đánh của bộ đội chủ lực cũng cần chú trọng xây dựng phát triển LLVT địa phương và dân quân du kích ở các thôn, xã.
Trong giai đoạn hiện nay, cùng những tiến bộ vượt bậc của khoa học-công nghệ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ trên toàn cầu, sự biến động của tình hình thế giới, khu vực đem lại cả thuận lợi và thời cơ, khó khăn và thách thức đan xen, đặt ra những yêu cầu mới đối với nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh; tăng cường tiềm lực quốc phòng, tạo thế chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Theo đó, cần coi trọng xây dựng lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ cân đối, đồng bộ, có chất lượng tổng hợp, trình độ, sức mạnh và khả năng phối hợp tác chiến cao, nhất là giữa lực lượng cơ động và lực lượng tại chỗ. Toàn quân cần tranh thủ thời cơ, tận dụng thời gian, khai thác, phát huy tốt lợi thế của các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, khoa học-công nghệ... nhằm đẩy nhanh lộ trình hiện đại hóa quân đội, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và đóng góp tích cực cho nền hòa bình, ổn định ở khu vực và thế giới.
Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả Đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới (giai đoạn 2020-2025), điều chỉnh tổ chức, biên chế bảo đảm “tinh, gọn, mạnh”; cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, giảm đầu mối trung gian, đồng bộ giữa vũ khí, trang bị với nhân lực và công tác bảo đảm.
Cùng với đó, cần tổ chức xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao, được quản lý, chặt chẽ, sẵn sàng động viên, mở rộng lực lượng khi cần thiết. Củng cố lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, có số lượng, cơ cấu phù hợp với đặc điểm địa bàn, dân số, chú trọng lực lượng dân quân tự vệ ở các vùng trọng điểm, dân quân biển; không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống quốc phòng, an ninh ngay tại cơ sở, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh bảo đảm chất lượng huấn luyện, diễn tập, quân đội phải thực hiện tốt chức năng “đội quân chiến đấu”, “đội quân công tác”, “đội quân lao động sản xuất” trong thời bình, sẵn sàng giúp dân trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và những thách thức an ninh phi truyền thống, phát huy phẩm chất và xứng danh Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.
Bốn là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc.
Trong Chiến dịch Hòa Bình, Tổng Quân ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch đã kết hợp được hiệu quả chiến đấu của các lực lượng dựa trên thế trận chiến tranh nhân dân ở các địa bàn khác nhau, đặc biệt là đã phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng giữa mặt trận chính và mặt trận sau lưng địch. Ở các mặt trận, ta đã phối hợp được sức mạnh chiến đấu của các lực lượng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân, du kích... Trong bộ đội chủ lực, ta đã bố trí các lực lượng, vận dụng các cách đánh sáng tạo, phù hợp và đã phát huy tốt sức mạnh của các binh chủng, các lực lượng tiêu diệt quân địch ở các hướng, các mũi, cả quân địch phòng ngự trong công sự lẫn quân địch chi viện trên đường bộ, đường sông...
Với việc đưa hai đại đoàn chủ lực vào hoạt động ở vùng sau lưng địch, ta đã kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động tác chiến của bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương, dân quân du kích và các hoạt động của toàn dân đánh giặc, phá tề trừ gian, bao vây, phá hủy các đồn bốt của địch, mở rộng căn cứ du kích, các khu căn cứ kháng chiến, mở rộng vùng giải phóng. Tiến công quân sự phối hợp, hỗ trợ đấu tranh chính trị và ngược lại lực lượng chính trị của quần chúng cũng giúp đỡ, tạo điều kiện để lực lượng quân sự phát huy sức mạnh giành thắng lợi. Sự phối hợp giữa các lực lượng, các mặt trận đã “vô hiệu hóa một đòn tiến công chiến lược của địch, đồng thời làm cho chúng rối tung không biết tìm cách đối phó”(9).
Thắng lợi của Chiến dịch Hòa Bình đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng ta là trong khi đẩy mạnh vận động chiến vẫn phải phát triển chiến tranh du kích rộng khắp. Chiến tranh nhân dân của ta cần có sự phối hợp chặt chẽ với tác chiến của các binh đoàn chủ lực và chiến tranh nhân dân địa phương càng phát triển thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho các binh đoàn chủ lực giành thắng lợi lớn. Thắng lợi của các binh đoàn chủ lực trực tiếp thúc đẩy chiến tranh nhân dân địa phương phát triển lên trình độ cao hơn.
Bài học này vẫn còn nguyên giá trị trong công cuộc xây dựng quân đội, tăng cường quốc phòng trong tình hình hiện nay, đó chính là xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhằm phát huy cao độ sức mạnh của các lực lượng trong bảo vệ Tổ quốc. Để đáp ứng những yêu cầu đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tiếp tục quán triệt thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị khóa X “Về tiếp tục xây dựng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới” và Nghị định số 21/2019/NĐ-CP ngày 22-2-2019 của Chính phủ về xây dựng khu vực phòng thủ; đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quân sự trong khu vực phòng thủ.
Quá trình xây dựng khu vực phòng thủ, cần tập trung xây dựng đồng bộ, toàn diện các tiềm lực trong khu vực phòng thủ (chính trị-tinh thần, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội, khoa học-công nghệ, đối ngoại), trong đó cần chú trọng đặc biệt công tác xây dựng tiềm lực chính trị-tinh thần.
Bên cạnh đó, cần thực hiện tốt việc kết hợp giữa các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo, khu kinh tế, khu công nghiệp trọng điểm để bảo đảm xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Quan tâm đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên xây dựng công trình phòng thủ trong căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu phương, hậu cần, kỹ thuật, khu vực phòng thủ then chốt, sở chỉ huy các cấp, tạo lập thế bố trí hiểm hóc, vững chắc giữa các khu vực phòng thủ với phòng thủ quân khu và trên từng hướng chiến lược, sẵn sàng cho các tình huống quốc phòng, an ninh.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân hiện nay cần gắn với tổ chức, bố trí lực lượng với xây dựng các tiềm lực của đất nước, sẵn sàng triển khai, chuyển hóa các tiềm lực thành thực lực quốc phòng một cách đồng bộ theo ý định, kế hoạch chiến lược trên toàn lãnh thổ, bảo đảm thế trận quốc phòng toàn dân ngày càng vững chắc. Trên các hướng, các địa bàn chiến lược cần bố trí cân đối, hợp lý giữa lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, giữa lực lượng địa phương và bộ đội chủ lực, giữa các quân, binh chủng, lực lượng, ngành; tạo thế trận tổng hợp, vững chắc, phát huy tối đa sức mạnh của các lực lượng, bảo đảm khả năng tác chiến trên mọi môi trường, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
70 năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa và những bài học lịch sử rút ra từ thực tiễn chỉ đạo, tổ chức, điều hành Chiến dịch Hòa Bình vẫn luôn có giá trị lịch sử và hiện thực sâu sắc, góp phần vào công cuộc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó.
--------
(1) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch tiến công Hòa Bình (12/1951-2/1952), NXB QĐND, Hà Nội, 1991, tr.6.
(2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập luận văn, NXB QĐND, Hà Nội, 2006, tr.263.
(3) Bộ Quốc phòng-Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Chiến dịch tiến công Hòa Bình (12/1951-2/1952), NXB QĐND, Hà Nội, 1991, tr.52.
(4) Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, tập IV, Bộ Tổng Tham mưu xuất bản, 1963, tr.71.
(5) Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, tập IV, Sđd, tr.55.
(6) Quân đội nhân dân Việt Nam-Bộ Tổng Tham mưu, Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), NXB QĐND, Hà Nội, 2015, tr.381.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr.159.
(8) Những tài liệu chỉ đạo các chiến dịch của Trung ương Đảng, Tổng Quân ủy và Bộ Tổng Tư lệnh, tập IV, Sđd, tr.25-26.
(9) Đại tướng Võ Nguyên Giáp-Đường tới Điện Biên Phủ, NXB QĐND, Hà Nội, 2001, tr.295.
Thượng tướng, TS LÊ HUY VỊNH, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng