Tham gia Thế chiến thứ nhất, Patton lập công trong trận Meuse-Argonne (1918), trở thành một trong những chỉ huy đầu tiên của binh chủng xe tăng quân đội Mỹ và một trong những vị tướng xe tăng hay nhất lịch sử sau này.
Tuy nhiên, mãi đến tháng 3/1943, Patton mới có cơ hội giáp chiến trận đầu với quân Đức quốc xã.
Ngày 25/2/1943, phe Trục đánh thủng phòng tuyến quân Đồng minh Mỹ-Anh mà chủ yếu là Quân đoàn 2 của Mỹ tại đèo Kasserine (miền trung Tunisia). Trong 10 ngày xảy ra chiến sự, quân Mỹ bị đẩy lùi 80km, mất 7.000 quân, 183 xe tăng, 194 xe tải quân sự, 208 đại bác, 512 xe tải và jeep. Thất bại tại đèo Kasserine trong lần đầu đối mặt với quân Đức khiến nhiều năm sau người Mỹ vẫn chưa thể nuốt trôi được.
Trong tình hình đó, Patton được cử thay tướng Fredendall chỉ huy Quân đoàn 2 và đã thể hiện được tài năng của mình. Ngày 17/3, quân Mỹ phản công, đánh thắng trong trận El Guettar và đẩy lui quân Đức-Italia, qua đó tạo cơ hội để quân Mỹ-Anh mở cuộc tổng tấn công, quét sạch quân đội phe Trục ra khỏi châu Phi, mở đường cho chiến dịch Husky đổ bộ vào đảo Sicilia của Italia vào tháng 7/1943.
Trong chiến dịch này, Patton chỉ huy quân Mỹ trong thành phần lực lượng Đồng minh gồm quân Mỹ, Anh, Canada tấn công đánh chiếm thành phố Catania trên đảo Sicilia, giúp quân Đồng minh khống chế được tuyến đường biển tại Địa Trung Hải, làm tiền đề cho cuộc đổ bộ quan trọng giải phóng châu Âu sau này.
Trong chiến dịch đổ bộ Normandy, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nghi binh khiến quân Đức tưởng rằng quân Đồng minh sẽ thực hiện cuộc đổ bộ tại Pas de Calais, ngày 28/7/1944, George Patton chỉ huy quân Mỹ giải phóng một loạt thành phố rồi tiếp tục tiến sâu xuống miền nam nước Pháp, tạo đà cho quân Đồng minh giải phóng thủ đô Paris ngày 25/8/1944.
Trong giai đoạn đầu của trận Ardeness (16/12/1944 đến 16/1/1945), quân Mỹ bị tổn thất nặng, gần 8.000 binh sĩ thuộc Sư đoàn bộ binh 106 đóng ở Bastogne buộc phải đầu hàng. Quân Đồng minh quyết định khẩn cấp điều Sư đoàn dù 101 đến hỗ trợ. Quân Đức liền tập trung 7 sư đoàn để bao vây, nếu xóa sổ được sư đoàn Mỹ này, chỉ trong ngày một ngày hai, quân Đức có thể xộc tới đánh chiếm cảng Antwerp, một cảng tiếp tế quan trọng cho quân Đồng minh.
Ở thế bất lợi 1 chọi 5 và trong điều kiện quân Đồng minh gặp khó khăn trong việc yểm trợ trên không do tuyết rơi dày đặc, tình hình Sư đoàn dù 101 rất nguy cấp.
Đúng lúc này, Patton xung phong tiến hành cuộc tấn công giải cứu Sư đoàn dù 101 ở Bastogne. Đối với nhiều người, đây là nhiệm vụ bất khả thi, bởi binh sĩ phải hành quân hơn 100km qua địa hình rất phức tạp, trong thời tiết sương mù và tuyết rơi dày đặc, mọi con đường đều bị một lớp băng bao phủ. Tuy nhiên, sau một ngày chiến đấu ác liệt, tối 25/12/1944, Sư đoàn 4 thiết giáp thuộc Tập đoàn quân 3 của Patton đã đến Bastogne thành công và mở đường giải cứu quân Mỹ bị bao vây. Những đơn vị tiếp theo sau đó cũng đến nơi thuận lợi và củng cố hệ thống phòng thủ ở Bastogne.
Quân Đức, chỉ trong vài ngày, đã mở 17 cuộc tấn công liên tiếp nhưng đều vô ích. Khi Tổng tư lệnh quân Đức là Thống chế Gerd von Rundstedt hay tin tướng Patton đã đích thân đến tiền tuyến, ông ta bất giác thở dài và nói: "Mọi chuyện đã kết thúc rồi".
Tháng 3/1945, Patton chỉ huy Tập đoàn quân 3 đảm nhiệm cánh phải của lực lượng Đồng minh vượt sông Rhine. Trong chiến dịch này, Tập đoàn quân 3 với 300.000 quân đã đánh chiếm 84.000km2 đất trong lãnh thổ Đức, tiêu diệt và làm bị thương 67.800 người, bắt làm tù binh hơn 400.000 quân Đức, liên tiếp đánh chiếm các thành phố Trier, Coblenz, Bingen, Worms, Mainz, Kaiserslautern và Ludwigshafen.
Tính chung trong toàn bộ Thế chiến Hai, Patton cùng Tập đoàn quân 3 có tổng số thời gian chiến đấu là 281 giờ, vượt qua 24 sông lớn, giải phóng 211.000km2 lãnh thổ, 12.000 thị trấn, làng mạc, tiêu diệt, làm bị thương và bắt giữ 1,8 triệu quân (tức nhiều gấp 6 lần số quân của mình). Với kỉ lục về số lượng quân địch bị loại khỏi vòng chiến đấu và diện tích đất đai được giải phóng, George Patton trở thành vị tướng hiệu quả nhất trong chiến tranh, còn Tập đoàn quân 3 của ông ta được xem là một trong những lực lượng chiến đấu mạnh nhất trong lịch sử quân đội Mỹ.
Ngày 9/12/1945, Patton bị tai nạn xe hơi ở gần thành phố Mannheim (Đức) và đến ngày 21/12 thì qua đời.
Với biệt danh Old Blood and Guts (“Ông già máu lửa”) do tính kỷ luật, lòng can đảm, sự hiếu thắng cũng như thói quen hay văng tục, trong đời quân ngũ 36 năm của mình, Đại tướng Patton đã lập nhiều công trạng. Những kinh nghiệm cùng những trận đánh của ông đã được xây dựng thành các bài giảng tại nhiều trường quân sự trên thế giới.
Nguyên Phong