Bạch
Hổ là tên một một mỏ dầu đang khai thác của Việt Nam. Mỏ nằm ở vị trí
đông nam, cách bờ biên Vũng tàu khoảng 145 km. Đây là mỏ cung cấp dầu mỏ
chủ yếu cho Việt Nam hiện nay. Đơn vị khai thác mỏ này là Xí nghiệp
liên doanh Dầu khí Vietsovpetro thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt
Nam.
Từ mỏ này có đường ống dẫn khí đồng hành vào bờ cung cấp cho nhà máy khí hóa lỏng Dinh Cố, nhà máy điện Bà Rịa và Trung tâm điện lực Phú Mỹ cách Vũng Tàu 40 km. Mỏ Bạch Hổ hiện đang khai thác bằng chế độ tự phun, góp phần không nhỏ cho nền kinh tế nước nhà.
Thực trạng khai thác các mỏ dầu khí
Hiện tại Vietsovpetro đang quản lý và khai tác nhiều mỏ như Bạch Hổ, Bắc trung tâm Rồng, Đông Nam Rồng, Nam Rồng – Đồi Mồi và sắp đưa vào khai thác mỏ Nam trung tâm Rồng, Đông Bắc Rồng, Mỏ khí Thiên Ưng đang được thiết kế và sẽ đưa vào khai thác sớm vào năm 2013.
Bạch Hổ, mỏ dầu lớn nhất trên thềm lục địa Việt Nam, bao gồm nhiều thân dầu phân bố liên tục từ Miocen dưới đến móng kết tinh trước Đệ Tam, được tổ chức nghiên cứu, khai thác, cho đến nay có thể nói là một trong những mỏ thành công nhất.
Với mục tiêu nâng cao hệ số thu hồi dầu, Vietsovpetro đã áp dụng thành công nhiều giải pháp như giải pháp vi sinh hóa lý, giải pháp bơm ép nước, giải pháp nâng cao hệ số bao trùm… và đặc biệt quan trọng hơn là giải pháp điều chỉnh chế độ và hệ thống khai thác. Hệ thống khai thác đầu tiên được áp dụng từ trước năm 1993, trong đó có tổ chức đới mũ khí tiềm năng và đới khai thác, chưa có bơm ép, các giếng đều thẳng đứng.
Từ cuối năm 1993, Vietsovpetro đã áp dụng thử nghiệm bơm ép vào thân dầu trong đá móng nứt nẻ. Chính vì vậy từ thời điểm này hệ thống khai thác thứ 2 được đề xuất, trong đó bổ sung thêm đới bơm ép từ - 3850m xuống đáy thân dầu.
Từ những năm cuối của thập kỷ 90, các chuyên gia của Vietsovpetro đã nhận thấy rằng nếu duy trì bơm ép thì khó có khả năng hình thành mũ khí và các giếng khoan nghiêng có khả năng cho dòng hoặc độ tiếp nhận tốt hơn, đồng thời để hạn chế tạo thành lưỡi nước xâm nhập vào các giếng khai thác cần hình thành đới chuyển tiếp cũng như đẩy khoảng bơm xuống dưới – 4000m.
Nhờ bơm ép nước mà áp suất vỉa thân dầu trong móng mỏ Bạch Hổ được duy trì ổn định hơn. Theo kết quả tính toán, do giải pháp bơm ép nước, tổng sản lượng dầu tích dồn của thân dầu trong móng mỏ Bạch Hổ có khả năng nâng lên từ 78 triệu tấn lên trên 190 triệu tấn.
Khu vực mỏ Rồng là khu vực mỏ vừa và nhỏ. Đây là thành công lớn của Vietsovpetro trong việc xây dựng hệ thống khai thác liên hoàn cho 6 – 7 mỏ trên cơ sở sử dụng chung hệ thống bơm ép nước, hệ thống gaslift, hệ thống lưu chứa dầu và hệ thống bơm vận chuyển khí vào bờ.
Cũng như mỏ Bạch Hổ, mỏ Bắc Trung tâm Rồng và mỏ Đông Nam Rồng đều được tổ chức khai thác với chế đội khai thác ổn định, vượt hơn rất nhiều so với thiết kế ban đầu và đang được nghiên cứu để mở rộng, gia tăng sản lượng khai thác.
Theo sơ đồ công nghệ khai thác năm 2000, tổng sản lượng tích dồn đến năm 2020 toàn mỏ Đông Nam Rồng là 6,8 triệu tấn dầu. Do áp dụng nhiều giải pháp thực sự có hiệu quả, như khoan đan dày, áp dụng gaslift, điều chỉnh hợp lý chế độ bơm ép nên đến hết năm 2009 tổng sản lượng dầu tích dồn đã vượt con số trên và dự kiến thăm dò, xây dựng các công trình biển bổ sung có khả năng cho tổng sản lượng dầu vượt qua 13 – 14 triệu tấn.
Chế độ bơm ép
Đây là giải pháp hàng đầu nâng cao hệ quả khai thác mỏ. Kinh nghiệm cho thấy hệ số thu hồi dầu không vượt quá 0,15 – 0,20 nếu không bơm ép nước.
Tuy nhiên, nếu không tổ chức bơm ép và điều chỉnh chúng một cách hợp lý thì hệ số thu hồi dầu có thể còn thấp hơn. Lựa chọn được chế độ khai thác tối ưu trên cơ sở phải đảm bảo grandient thủy động lực luôn nhỏ hơn hoặc dao động xung quanh gradient trọng trường. Áp dụng bơm ép theo chu kỳ, bơm ép ở phần dưới ranh giới dầu nước là những yêu cầu đặc biệt quan trọng, cần được nghiên cứu, áp dụng một cách phù hợp cho từng mỏ cụ thể. Chiều dày đới chuyển tiếp càng lớn thì hiệu quả bơm ép càng cao.
Áp dụng các phương pháp cơ học như bơm ngầm và gaslift với chế độ khai thác hợp lý cũng là giải pháp nâng cao khả năng thu hồi trữ lượng.
Các giải pháp xử lý vùng cận đáy giếng là giải pháp đặc biệt quan trọng góp phần tăng khả năng thu hồi dầu của giếng. Kinh nghiệm cho thấy vùng cận đáy giếng luôn bị nhiễm bẩn khiến cho dòng ở phần cận đáy giếng bị mất dẫn đến lưu lượng giếng giảm đi rõ rệt. Hiện tượng này rất khó xử lý đối với các giếng khoan hoặc á ngang.
Việc khoan giếng ngang hoặc á ngang có rất nhiều nhược điểm như: khó khảo sát, không thu được thông tin chính xác của giếng, khó điều chỉnh khoảng bơm ép và khai thác và có nghĩa là khó điều chỉnh chế độ khai thác, khó làm sạch vùng cận đáy giếng.
Vietsovpetro đã áp dụng thành công công nghệ mới nhằm tăng khả năng cho dòng của giếng như nứt vỉa thủy lực, xử lý axit, vi sinh hóa lý và ngăn cách điều chỉnh dòng.
Tóm lại, Vietsovpetro là một công ty dầu đạt được nhiều thành công nhất trong tổ chức quản lý và điều hành khai thác mỏ.
Từ mỏ này có đường ống dẫn khí đồng hành vào bờ cung cấp cho nhà máy khí hóa lỏng Dinh Cố, nhà máy điện Bà Rịa và Trung tâm điện lực Phú Mỹ cách Vũng Tàu 40 km. Mỏ Bạch Hổ hiện đang khai thác bằng chế độ tự phun, góp phần không nhỏ cho nền kinh tế nước nhà.
Thực trạng khai thác các mỏ dầu khí
Hiện tại Vietsovpetro đang quản lý và khai tác nhiều mỏ như Bạch Hổ, Bắc trung tâm Rồng, Đông Nam Rồng, Nam Rồng – Đồi Mồi và sắp đưa vào khai thác mỏ Nam trung tâm Rồng, Đông Bắc Rồng, Mỏ khí Thiên Ưng đang được thiết kế và sẽ đưa vào khai thác sớm vào năm 2013.
Các giàn khoan trên mỏ Bạch Hổ
Bạch Hổ, mỏ dầu lớn nhất trên thềm lục địa Việt Nam, bao gồm nhiều thân dầu phân bố liên tục từ Miocen dưới đến móng kết tinh trước Đệ Tam, được tổ chức nghiên cứu, khai thác, cho đến nay có thể nói là một trong những mỏ thành công nhất.
Với mục tiêu nâng cao hệ số thu hồi dầu, Vietsovpetro đã áp dụng thành công nhiều giải pháp như giải pháp vi sinh hóa lý, giải pháp bơm ép nước, giải pháp nâng cao hệ số bao trùm… và đặc biệt quan trọng hơn là giải pháp điều chỉnh chế độ và hệ thống khai thác. Hệ thống khai thác đầu tiên được áp dụng từ trước năm 1993, trong đó có tổ chức đới mũ khí tiềm năng và đới khai thác, chưa có bơm ép, các giếng đều thẳng đứng.
Từ cuối năm 1993, Vietsovpetro đã áp dụng thử nghiệm bơm ép vào thân dầu trong đá móng nứt nẻ. Chính vì vậy từ thời điểm này hệ thống khai thác thứ 2 được đề xuất, trong đó bổ sung thêm đới bơm ép từ - 3850m xuống đáy thân dầu.
Từ những năm cuối của thập kỷ 90, các chuyên gia của Vietsovpetro đã nhận thấy rằng nếu duy trì bơm ép thì khó có khả năng hình thành mũ khí và các giếng khoan nghiêng có khả năng cho dòng hoặc độ tiếp nhận tốt hơn, đồng thời để hạn chế tạo thành lưỡi nước xâm nhập vào các giếng khai thác cần hình thành đới chuyển tiếp cũng như đẩy khoảng bơm xuống dưới – 4000m.
Nhờ bơm ép nước mà áp suất vỉa thân dầu trong móng mỏ Bạch Hổ được duy trì ổn định hơn. Theo kết quả tính toán, do giải pháp bơm ép nước, tổng sản lượng dầu tích dồn của thân dầu trong móng mỏ Bạch Hổ có khả năng nâng lên từ 78 triệu tấn lên trên 190 triệu tấn.
Khu vực mỏ Rồng là khu vực mỏ vừa và nhỏ. Đây là thành công lớn của Vietsovpetro trong việc xây dựng hệ thống khai thác liên hoàn cho 6 – 7 mỏ trên cơ sở sử dụng chung hệ thống bơm ép nước, hệ thống gaslift, hệ thống lưu chứa dầu và hệ thống bơm vận chuyển khí vào bờ.
Cũng như mỏ Bạch Hổ, mỏ Bắc Trung tâm Rồng và mỏ Đông Nam Rồng đều được tổ chức khai thác với chế đội khai thác ổn định, vượt hơn rất nhiều so với thiết kế ban đầu và đang được nghiên cứu để mở rộng, gia tăng sản lượng khai thác.
Theo sơ đồ công nghệ khai thác năm 2000, tổng sản lượng tích dồn đến năm 2020 toàn mỏ Đông Nam Rồng là 6,8 triệu tấn dầu. Do áp dụng nhiều giải pháp thực sự có hiệu quả, như khoan đan dày, áp dụng gaslift, điều chỉnh hợp lý chế độ bơm ép nên đến hết năm 2009 tổng sản lượng dầu tích dồn đã vượt con số trên và dự kiến thăm dò, xây dựng các công trình biển bổ sung có khả năng cho tổng sản lượng dầu vượt qua 13 – 14 triệu tấn.
Chế độ bơm ép
Đây là giải pháp hàng đầu nâng cao hệ quả khai thác mỏ. Kinh nghiệm cho thấy hệ số thu hồi dầu không vượt quá 0,15 – 0,20 nếu không bơm ép nước.
Tuy nhiên, nếu không tổ chức bơm ép và điều chỉnh chúng một cách hợp lý thì hệ số thu hồi dầu có thể còn thấp hơn. Lựa chọn được chế độ khai thác tối ưu trên cơ sở phải đảm bảo grandient thủy động lực luôn nhỏ hơn hoặc dao động xung quanh gradient trọng trường. Áp dụng bơm ép theo chu kỳ, bơm ép ở phần dưới ranh giới dầu nước là những yêu cầu đặc biệt quan trọng, cần được nghiên cứu, áp dụng một cách phù hợp cho từng mỏ cụ thể. Chiều dày đới chuyển tiếp càng lớn thì hiệu quả bơm ép càng cao.
Áp dụng các phương pháp cơ học như bơm ngầm và gaslift với chế độ khai thác hợp lý cũng là giải pháp nâng cao khả năng thu hồi trữ lượng.
Các giải pháp xử lý vùng cận đáy giếng là giải pháp đặc biệt quan trọng góp phần tăng khả năng thu hồi dầu của giếng. Kinh nghiệm cho thấy vùng cận đáy giếng luôn bị nhiễm bẩn khiến cho dòng ở phần cận đáy giếng bị mất dẫn đến lưu lượng giếng giảm đi rõ rệt. Hiện tượng này rất khó xử lý đối với các giếng khoan hoặc á ngang.
Việc khoan giếng ngang hoặc á ngang có rất nhiều nhược điểm như: khó khảo sát, không thu được thông tin chính xác của giếng, khó điều chỉnh khoảng bơm ép và khai thác và có nghĩa là khó điều chỉnh chế độ khai thác, khó làm sạch vùng cận đáy giếng.
Vietsovpetro đã áp dụng thành công công nghệ mới nhằm tăng khả năng cho dòng của giếng như nứt vỉa thủy lực, xử lý axit, vi sinh hóa lý và ngăn cách điều chỉnh dòng.
Tóm lại, Vietsovpetro là một công ty dầu đạt được nhiều thành công nhất trong tổ chức quản lý và điều hành khai thác mỏ.
- Đức Chính