Thực tiễn, mặc dù vùng biển Việt Nam có nhiều lực lượng chức năng hoạt động, song biên chế, tổ chức, phương tiện, trang bị các lực lượng còn mỏng so với diện tích vùng biển phải quản lý, bảo vệ; công tác phối hợp giữa Cảnh sát biển Việt Nam với lực lượng khác dù đã đạt được những kết quả nhất định song vẫn tồn tại một số điểm hạn chế như: hoạt động phối hợp có thời điểm hiệu quả chưa cao, chưa đi vào chiều sâu, cơ bản mới dừng lại ở trao đổi thông tin, đánh giá, dự báo tình hình, trao đổi kinh nghiệm; việc phối hợp, hỗ trợ thực thi nhiệm vụ trực tiếp trên biển, nhất là xử lý các tình huống chưa nhiều.
Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt trong thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển. |
Trong bối cảnh các hành vi xâm phạm chủ quyền biển, đảo Việt Nam tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; các hành vi tội phạm, vi phạm pháp luật có phương thức, thủ đoạn ngày một tinh vi, khó phát hiện, xử lý; đặc thù môi trường hoạt động trên biển có tính rủi ro cao; điều kiện khí tượng thủy văn khắc nghiệt; hiện trường trên biển khó tiếp cận, có thể nhanh chóng bị xóa dấu vết; đối tượng vi phạm có thể dễ dàng che dấu hành vi vi phạm cũng như lẩn trốn, cản trở, chống đối khi bị phát hiện… Vì vậy, cần phải thiết kế các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao ở tầm luật nhằm bảo đảm công tác phối hợp giữa các lực lượng được chặt chẽ, nhịp nhàng, có khả năng xử lý kịp thời, hiệu quả các vụ việc, tình huống xảy ra trên biển.
Xuất phát từ những lý do trên, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng dự án Luật Cảnh sát biển Việt Nam là nghiên cứu, rà soát, đánh giá và thu hút các quy định pháp luật về phối hợp có giá trị trong thực tiễn vào Luật.
Theo đó, Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018 đã cụ thể hóa các quy định về công tác phối hợp giữa Cảnh sát biển Việt Nam với cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng trong Chương IV, gồm 4 Điều (từ Điều 22 đến Điều 25) quy định về phạm vi phối hợp, nguyên tắc phối hợp, nội dung phối hợp và trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phối hợp hoạt động đối với Cảnh sát biển Việt Nam.
Về nguyên tắc phối hợp, Điều 23 Luật Cảnh sát biển Việt Nam quy định rõ:
- Việc phối hợp phải trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, lực lượng chức năng thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật; không làm cản trở hoạt động hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên biển.
- Cảnh sát biển Việt Nam và cơ quan, tổ chức, lực lượng chức năng thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp phối hợp để giải quyết kịp thời các vụ việc và hỗ trợ nhau thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
- Bảo đảm sự chủ trì, điều hành tập trung, thống nhất, giữ bí mật thông tin về quốc phòng, an ninh và biện pháp nghiệp vụ của cơ quan, tổ chức, lực lượng chức năng trong quá trình phối hợp.
- Bảo đảm chủ động, linh hoạt, cụ thể và hiệu quả, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan chủ trì, phối hợp.
- Trên cùng một vùng biển, khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều cơ quan, tổ chức, lực lượng thì cơ quan, tổ chức, lực lượng nào phát hiện trước phải xử lý theo thẩm quyền do pháp luật quy định; trường hợp vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình thì chuyển giao hồ sơ, người, tang vật, tàu thuyền và phương tiện vi phạm pháp luật cho cơ quan, tổ chức, lực lượng có thẩm quyền chủ trì giải quyết.
- Cơ quan, tổ chức, lực lượng tiếp nhận có trách nhiệm thông báo kết quả điều tra, xử lý cho cơ quan, tổ chức, lực lượng chuyển giao biết.
(trích Luật Cảnh sát biển Việt Nam năm 2018, Công báo số 1135 + 1136, ngày 22/12/2018)
Việc Luật Cảnh sát biển Việt Nam dành riêng một chương quy định rõ nguyên tắc, phạm vi, phối hợp hoạt động giữa Cảnh sát biển Việt Nam với các cơ quan, tổ chức, lực lượng chức năng thuộc Bộ, ngành, chính quyền địa phương thể hiện tầm quan trọng của công tác phối hợp; tạo nền tảng pháp lý cho các lực lượng phát huy sức mạnh tổng hợp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật trên biển.
Ngoài ra, Bộ Quốc phòng cũng đã chủ trì soạn thảo, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 61/2019/NĐ-CP ngày 10/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cảnh sát biển Việt Nam.
Trong đó, Chương V đã quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm phối hợp với Cảnh sát biển Việt Nam của cơ quan, đơn vị, lực lượng chức năng thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, chính quyền địa phương trong từng nhiệm vụ, từng lĩnh vực quản lý nhà nước; tạo hành lang pháp lý đầy đủ, vững chắc để Cảnh sát biển Việt Nam cũng như các lực lượng chức năng khác phát huy sức mạnh tổng hợp, phối hợp hiệu quả trong quản lý, bảo vệ biển, đảo Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Thu Hằng - Ảnh Nguyễn Liên